PHÁP HOA KINH
THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
(Giáo án Cao Cấp Phật Học)
Pháp Sư Thích Từ Thông
— o0o —
Mục Lục
Phẩm #
Phẩm Tựa
Phẩm 1 – Tựa
Phẩm 2 – Phương tiện
Phẩm 3 – Thí du
Phẩm 4 – Tin giải
Phẩm 5 – Dược thảo dụ
Phẩm 6 – Thọ ký
Phẩm 7 – Hóa thành dụ
Phẩm 8 – Ngũ bách đệ tử thọ ký
Phẩm 9 – Thọ học vô học nhơn ký
Phẩm 10 – Pháp sư
Phẩm 11 – Hiện bảo tháp
Phẩm 12 – Đề bà đạt đa
Phẩm 13 – Khuyến trì
Phẩm 14 – An lạc hạnh
Phẩm 15 – Tùng địa dũng xuất
Phẩm 16 – Như Lai thọ lượng
Phẩm 17 – Phân biệt công đức
Phẩm 18 – Tùy hỉ công đức
Phẩm 19 – Pháp sư công đức
Phẩm 20 – Thường Bất Khinh Bồ tát
Phẩm 21 – Như Lai thần lực
Phẩm 22 – Chúc lụy
Phẩm 23 –Dược Vương Bồ tát bổn sự
Phẩm 24 – Diệu Âm Bồ tát vãng lai
Phẩm 25 – Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn
Phẩm 26 – Đà la ni
Phẩm 27 – Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự
Phẩm 28 – Phổ Hiền, Bồ tát khuyến phát
DUYÊN KHỞI TỰ
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là một bộ kinh được lưu truyền sâu rộng ở các nước Phật giáo theo hệ tư tưởng Đại thừa. Ở Trung Quốc, vào đời Diêu Tân khoảng cuối thế kỷ thứ ba, Ngài Cưu Ma La Thập, một nhà sư người Ấn dịch từ Phạn văn ra Hán văn với nhan đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. sư Quách Hoàng, sư Trúc Pháp Hộ dịch nhan đề là Chánh Pháp Hoa Kinh. Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam những nước cùng một khuynh hướng ái mộ tư tưởng Đại thừa đề tôn trọng bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập. Ở Việt Nam khắp tòng lâm, tự viện, am thất chỗ nào không có kinh Pháp Hoa gần như chỗ đó được như xem như thiếu Phật. Xem thế đủ biết “diệu lực” của Kinh Pháp Hoa, đức tin của người Phật tử đối với kinh Pháp Hoa thâm hậu biết chừng nào!
Ở Việt Nam ta có hai bản dịch từ Hán văn ra Việt văn sớm nhất. Bản dịch của ông Đoàn Trung Còn xuất bản vào năm 1936. Bản dịch này, ở vào thời đại bấy giờ kinh Pháp Hoa chưa được phổ biến nhiều. Đến năm 1948 bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh ra đời, do Liên Hải Phật Học Đường xuất bản, có lẽ do thiên thời, địa lợi, nhơn hòa, vì mầm chấn hưng Phật giáo được manh nha từ thời điểm ấy cho nên bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh được phổ biến rông, tái bản nhiều lần và truyền bá, thọ trì đọc tụng hầu khắp tự viện, tòng lâm cho đến ngày nay.
Vấn đề: Vì sao đồng bào Phật tử ham tụng kinh Pháp Hoa ? Có sự linh nghiệm, cảm ứng thế nào ? Tôi xin phép miễn bàn về việc đó.
Riêng tôi xin dâng hết tâm thành lên Đức Phật, mà khẳng định rằng: “Tụng kinh giả, minh Phật chi lý” nghĩa là: Đọc kinh cốt để tìm hiểu giáo lý Đức Phật muốn dạy gì cho mình.
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, người có chủng tánh Đại thừa, có được ít nhiều tuệ nhãn, nhìn vào như nhìn hạt ngọc kim cương. Tùy góc đứng khác nhau mà ngọc kim cương ảnh hiện màu sắc khác nhau, nhưng màu sắc nào cũng đều rực rỡ. Tùy khả năng tư duy tu của hành giả mà nhận thức cái “diệu nghĩa” của kinh một khác. Bởi lẽ đó, kinh Diệu Pháp Liên Hoa xuất hiện ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam đến nay đã ngót hai ngàn năm mà sức sống càng mạnh và rộng. Các tiền bối trong Phật giáo đã đầu tư trí tuệ, ra sức phát huy cái “diệu nghĩa”, “huyền nghĩa”, “thông nghĩa”, “mật nghĩa” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà hình như chưa có vị nào có thể cho là mình bằng lòng trọn vẹn. Bởi kinh Pháp Hoa là kinh: “Duy hữu Phật dữ Phật nãi năng tri chi” (chỉ có Phật với Phật mới hiểu hết cái diệu lý của kinh). Tuy nhiên, mỗi ngài đều có cái tâm đắc, cái tuệ nhãn riêng để nhận thức tương đương với sự thâm ngộ và thể nhập của mình. Mỗi ngài viết ra thành tác phẩm giữ lại làm tài liệu nhằm ghi lại cái kết quả đó. Còn vấn đề đem lại lợi lạc ít hay nhiều cho tăng tín đồ Phật giáo, thì còn tùy thuộc nhân duyên, căn cơ và chủng tánh nữa.
Nhìn lịch sử nghiên cứu sớ thích giảng giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đã thấy trong quá khứ:
- Pháp Hoa Văn Cú của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư
- Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Sa môn Cát Tạng
- Pháp Hoa Du Ý của ngài Khuy Cơ
- Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Nguyên Hiểu
- Pháp Hoa Tông Yếu của ngài Minh Chánh
- Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Cư sĩ Chánh Trí và sinh tiền:
- Pháp Hoa Cương Yếu của Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Nhìn chung, sự nhận thức và triển khai của các Ngài, mỗi người mỗi vẻ, vẻ nào cũng có cái hay cái diệu riêng của nó.
Tôi một hậu học là một bần tăng cô lậu, có chút ít quá trình lạm dụng bút nghiên, lợi dụng cái vốn của những bậc Thầy tôn kính của tôi: Hòa Thượng Thượng Trí hạ Tịnh, Hòa Thượng Thượng Thiện hạ Hòa, Hòa Thượng Thượng Thiện hạ Hoa v.v…đã dày công uốn nắn giáo dục tôi và truyền thọ cho tôi phần gia bảo vô giá mà các ngài đã thừa kế sự nghiệp Như Lai để lại.
Tâm đắc nguồn tư tưởng liễu nghĩa Thượng thừa trác tuyệt của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, theo sở ngộ của mình tôi viết ra những tinh hoa thâm nghĩa ở sau mỗi phẩm của kinh văn đã được tóm lược và đặt cho giáo án này cái nhan đề:
PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Gọi là “giáo án” hay “giáo trình” cũng vậy, vì những kinh luận tôi biên soạn để triển khai, giảng dạy cho những người hậu học chớ không nhằm phục vụ cho tụng đọc, cho nguyện cầu để được phước. Bởi vì, theo lời Phật dạy; người được phước phải là người chế ngự những thói hư tật xấu, những bất thiện nghiệp của thân, khẩu, ý của mình.
Ngoài lý tưởng thiêng liêng đó, tôi hy vọng đền đáp phần nào công ơn của những bậc thầy tôn kính của tôi, đã lao công khổ trí đào tạo ra tôi. Tôi xúc động bùi ngùi khi ôn lại lời nhắc nhở, thiết tha của tổ Qui Sơn:
“Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu nghĩa lý truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức. Thời quang diệt bất hư khí, tất tu dĩ thử phò trì, trụ chỉ oai nghi tiện thị tăng trung pháp thí. Khởi bất kiến ỷ tòng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhơn phương năng quảng ích” ?
Có nghĩa là: Nếu mình chưa phải là bậc thượng lưu, vượt thẳng bên kia bờ giác thì hãy để tâm nơi giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương, tiếp dẫn hậu lai, đó là cách trả ơn cho Phật tổ. Ngày giờ không nên bỏ luống, phải sử dụng nó trong việc rèn luyện thân tâm. Khi đi cũng như lúc ở, sống đúng oai nghi để làm kho tàng đựng pháp trong chư tăng, há chẳng thấy dây sắn nương quấn cội tòng, nhờ có thắng duyên mà lên cao được đó sao ?
Âm vang của Tổ giục giả tôi tinh tấn làm cái việc tuy nhẹ bỗng mà đòi hỏi một nội lực khá nặng nề nầy.
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT
Mùa Xuân năm Giáp Tý 1984 DL
Pháp sư THÍCH TỪ THÔNG
Kính đề
TIỂU DẪN
Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được gọi với cái tên giản lược là kinh Pháp Hoa. Để phân biệt với các kinh thuộc hệ tư tưởng Tiểu thừa, gọi là Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Diệu Pháp Liên Hoa , đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sinh mà mọi người thường không hay không biết. Cái Tri Kiến Phật ấy lúc thành Phật không phải nó mới sanh ra, lúc còn là phàm phu nó tiềm tàng, ẩn mật mà không hề sút giảm hao bớt tí nào. Trên bình diện Tri Kiến Phật , chúng sanh và Phật, không hề có sự hơn kém thấp cao.
Với Phật nhãn, nhìn qua lăng kính Bát nhã Ba la mật thì “Tâm, Phật và chúng sanh” dù tên gọi có ba, mà thực chất không có phạm trù đơn vị riêng rẽ.
Cái ví dụ Liên Hoa, đức Phật vận dụng để chỉ bày một cách kín đáo, về Phật chất, về khả năng thành Phật của mọi người. Rằng hoa sen nở toàn diện, hoa sen nở 70, 80 phần trăm; hoa sen vừa trổi lên khỏi nước; hoa sen đang trong nước; cho đến hoa sen còn lủi dưới bùn, dù mức độ lớn nhỏ khác nhau, thời gian sanh trưởng không đồng mà cái tính đặc thù của hoa thì y nhau không hề sai khác. Gương, hạt ở ngay trong cánh nhụy và cánh nhụy bao trùm lấy gương hạt. Mượn đức tánh nầy, đức Phật “giới thiệu” cho mọi chúng sanh biết, rằng trong cái “nhân phàm phu” của các vị, còn có cái “quả Phật chất” ở ngay trong các vị, các vị chớ có khinh mình.
Hoa sen từ bùn nhơ nước đục mà ngoi lên, nhưng không vì nước đục bùn nhơ mà khiến cho hoa sen phai nhạt sắc hương thanh thoát của nó. Với đặc tính đó, đức Phật chỉ dạy: “Hỡi tất cả chúng sanh, các vị hãy vươn lên, tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Các vị hoàn toàn đủ tiêu chuẩn thành Phật, dù các vị đang ở trong hoàn cảnh “Ngũ trược ác thế” của cõi nước đục “Ta bà”….
Phật chỉ là một hoa sen nở trước, nở toàn diện, hiển bày cánh, nhụy, gương, hạt một cách viên mãn, vậy thôi. Phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều là sen tất cả. Tất cả chúng sanh không nên tự khinh mình! Trong các vị, ai ai cũng đều sẵn có Tri Kiến Phật.
Cái “Đại sự nhân duyên” xuất thế của Như Lai nhằm:
- Giới thiệu Tri Kiến Phật cho chúng sanh
- Chỉ rõ Tri Kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết
- Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ về Tri Kiến Phật của mình
- Động viên chúng sanh sống đúng và sống hợp với Tri Kiến Phật mà mình vố có.
Do vậy, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Và tư tưởng “thuần viên độc diệu” của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Thế Tôn ta với âm giọng hải triều tuyên bố:
“Tất cả chúng sanh đã thành Phật”
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG
Khể Thủ
****
PHẨM 1
“TỰA”
Kinh nầy tôi nghe, một lúc nọ đức Phật trụ ở núi Kỳ xà quật cùng với số chúng tụ họp xung quanh Phật rất đông, gồm đủ các thành phần:
Tỳ kheo đắc quả A la hớn 12.000 người. Bậc hữu học và vô học 2.000 người. Tỳ kheo ni 6.000 người. Bồ tát 80.000 người. Trời Đế Thích và quyến thuộc 20.000 người. Tứ Đại Thiên Vương và quyến thuộc 10.000 người. Trời Tự Tại và Đại Tự Tại cùng quyến thuộc 30.000 người. Phạm Thiên Vương và quyến thuộc 12.000 người. Tám vị Long Vương và quyến thuộc; A tu la vương và quyến thuộc; Ca lầu la vương và quyến thuộc nhiều trăm ngàn người. Có vua A xà thế, con bà Di đề hi cùng quyến thuộc tùy tùng câu hội…
Đại chúng đều đãnh lễ cúng dường tán thán Phật, rồi lui ngồi qua một phía.
Bấy giờ đức Thế Tôn vì chư đại Bồ tát nói kinh Đại Thừa tên là:
Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm
Nói kinh xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không lay động.
Chư Thiên vui mừng rải thiên hoa cúng dường Phật, hàng Nhân Thiên tán thán chấp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Như Lai.
Lúc bấy giờ, từ tướng lông trắng chặng giữa đôi mày Phật, phóng ra ánh hào quang chiếu khắp mười vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Trên từ cõi sắc cứu cánh, dưới suốt ngục A tỳ. Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau.
Lại thấy chư Phật ở các quốc độ đang nói pháp và được nghe pháp của các Phật rõ ràng. Cũng thấy các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, tu hành đắc đạo. Thấy các Bồ tát thực hành lục độ trong việc tự lợi lợi tha tinh tấn trên đường Bồ đề. Lại thấy có đức Phật nhập Niết bàn, có nơi xây dựng tháp tôn thờ xá lợi….
Bồ tát Di lặc và đại chúng đều lấy làm lạ trước điềm lành này. Thay mặt cho tất cả Bồ tát, Ngài Di Lặc cầu xin Đại Trí Văn Thù là bậc xuất chúng, giải thích cho đại chúng về những sự kiện trên.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi giải đáp rằng: “Theo chỗ tôi biết thì Thế Tôn nói pháp lớn, tuông mưa pháp lớn, thổi còi pháp lớn”. Bồ tát Văn Thù nói tiếp: “Tôi từng ở trong vô lượng Phật quá khứ đã thấy điềm lành này. Chư Phật phóng hào quang như thế, sau liền nói “pháp lớn”. Cho nên tôi biết chắc rằng, hôm nay Phật vì muốn cho chúng sanh được nghe biết “pháp nhiệm mầu” mà tất cả người đời khó tin cho nên hiện ra điềm lành ấy…..”
Bồ tát Văn Thù kể tiếp: “Cách vô lượng A tăng kỳ kiếp về trước có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh đủ mười đức hiệu diễn nói chánh pháp, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, nghĩa lý sâu xa, trước sau không mâu thuẫn, thuần nhất không tạp. Phật vì người Thanh văn thừa nói pháp “Tứ Đế” cầu ra khỏi sanh, già, bệnh, chết được cứu cánh Niết bàn. Vì hạng cầu quả Duyên giác nói pháp “Thập nhị nhân duyên”, vì hàng Bồ tát nói pháp “Lục ba la mật” khiến cho chứng quả Vô thượng Bồ đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí. Kế tiếp có 20.000 đức Phật cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng một họ Phả loa đọa. Pháp của tất cả chư Phật nói ra ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành.
Đức Phật rốt sau vốn là một nhà vua, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử tên là Hữu Ý, ThiệnÝ, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hướng Ý, và Pháp Ý. Nghe vua cha xuất gia tu hành thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều bỏ ngôi xuất gia theo.
Thuở đó, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng như đức Phật Thích Ca hiện nay, nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói xong liền nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không động.
Hàng Chư Thiên hân hoan rải hoa cúng dường. Đại chúng vui mừng chấp tay nhìn Phật với tất cả lòng kính mộ. Lúc bấy giờ từ tướng lông trắng, chặng giữa đôi mày Như Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000 thế giới ở phương Đông, y như điềm lành hiện nay mà đại chúng cùng đang thấy.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai từ chánh định dậy, vì Bồ tát Diệu Quang và tám trăm tử đệ mà nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải 60 tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi. Người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến 60 tiểu kiếp thân tâm không động, không mỏi mệt và xem thời gian ấy mau chừng như một bữa ăn.
Sau 60 tiểu kiếp nói kinh, trước chúng hội, Sa môn, Bà la môn, Thiên long, Ma Phạm, Nhơn phi nhơn, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên bố: hôm nay vào nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Trước khi vào Niết bàn, Phật thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng, trước đại chúng rằng: Đức Tạng Bồ tát nầy sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai đủ mười đức hiệu, thọ ký xong, đúng như lời tuyên bố đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn vào lúc nửa đêm.
Sau Phật diệt độ, Bồ tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp, vì người diễn nói và dạy bảo cho tám vị vương tử ở vững trong đường Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả tám vị lần lượt đều thành Phật và vị Phật chót hiệu là Nhiên Đăng.
Trong tám trăm đệ tử của Bồ tát Diệu Quang có một người tên là Cầu Danh. Sỡ dĩ người nầy có cái tên nầy là vì còn tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng kinh điển nhiều mà không thuộc rành. Dù vậy, đó cũng là một “căn lành” đã từng “gieo giống Phật” trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp.
Sau khi kể lại câu chuyện trên, Bồ tát Văn Thù kết luận: Bồ tát Diệu Quang lúc đó đâu phải người nào lạ, chính là ta đây, còn Cầu Danh Bồ tát lúc đó, nay chính là Di Lặc ngài đấy.
Hôm nay đức Phật Thích Ca phóng quang hiện điềm giống hệt xưa kia, tôi nghĩ là đức Phật cũng sẽ nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
THÂM NGHĨA
Học kinh Phật các tiền bối thường hay quan tâm đoạn mở đầu. Các ngài cho rằng ở phần thông tựa phải có đủ những yếu tố “Lục Chủng Thành Tựu” thì mới được xem là chánh thống kinh Phật nói. Thí dụ:
“Kinh Pháp Hoa này, tôi nghe một thời nọ, đức Phật trụ tại Linh Thứu Sơn, cùng với Tăng Ni đại chúng cả thảy có bao nhiêu ngàn người”.
“Lục Chủng Thành Tựu” hay Lục trùng chứng tín” tên gọi khác nhau, nhưng tiền bối quan niệm: Kinh Phật nói thì phải hội đủ những điều như thế.
Thật lý mà suy: muốn thành tựu một việc gì cần phải hội đủ yếu tố của việc đó. Điều đó là tất nhiên; nhưng nếu là kẻ gian, họ đem “Lục Chủng Thành Tựu” thay đổi cái “địa danh” na ná, phịa ra tên “kinh mới” cùng một số đại chúng tương tợ….cho vào phần đầu…cái quyển kinh sách “dỏm” của họ. Điều đó, nếu người ta muốn làm thì chẳng khó khăn gì. Vì vậy đọc kinh điển Phật với tôi vấn đề Văn nhi Tư. Tư nhi Tu mới đem lại cho người Phật tử cái “trí tuệ” đích thực của chính mình.
Trước khi nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật vì các hàng Bồ tát, nói kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Việc làm nầy của Phật, có dụng ý sâu xa. Có nghĩa là muốn học hiểu kinh Pháp Hoa, phải “chuẩn bị tư tưởng” qua kinh Vô Lượng Nghĩa. Nói cách khác, có ý thức trong sự tiếp thu tốt về chân lý “thuần viên độc diệu” đệ nhất nghĩa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Kinh Vô Lượng Nghĩa, nhưng không được hiểu rằng kinh nầy có nhiều nghĩa. Hiểu thế là sai. Vô Lượng Nghĩa ở đây phải hiểu là không cắt nghĩa được, cắt nghĩa kiểu nào, ngôn từ khéo léo đến đâu, nói hoài, nói mãi, nói “vô lượng ngữ ngôn” thậm chí “vô lượng số kiếp” cũng không diễn đạt thấu đáo được cái chân lý của ý kinh Phật dạy, ngoại trừ người “thể nhập”.
“Như nhơn ẩm thủy lãnh noãn tự tri”. Cốc nước đó, nóng hay lạnh, chỉ có người uống mới biết cái chừng độ của nó.
Người đệ tử Phật, phải hiểu Vô Lượng Nghĩa qua tinh thần tu học đó.
Sau đây, lời Phật dạy cho Bồ tát Đại Trang Nghiêm và các Bồ tát phải tu học về giáo lý Vô Lượng Nghĩa của Đại thừa.
Phật bảo: Này Đại Trang Nghiêm! Bồ tát muốn tu học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải nên quán sát: Hết thảy các pháp, từ trước tới nay, tánh tướng thường rỗng rang vắng lặng, thanh tịnh bản nhiên, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt, không đến, không đi, không một, không khác, không thường, không đoạn, không ra, không vào, không lùi, không tiến….Ví như hư không, không có cái hai. Chỉ vì chúng sanh hoạnh chấp. Chấp lấy cái giả dối rồi cho là cái nầy, cái kia, là được, là mất…khởi ra tâm niệm không lành, tạo mọi điều ác nghiệp; do vậy mà loanh quanh trong sáu nẻo chịu mọi sự khổ đau vô lượng ức kiếp mà không tự biết để tìm lấy lối ra!
Này Đại Trang Nghiêm! Tu học Vô Lượng Nghĩa, Bồ tát phải quán chiếu tư duy:
Pháp tướng “như vậy”, nó sanh “như vậy”.
Pháp tướng “như vậy”, nó trụ “như vậy”.
Pháp tướng “như vậy”, nó dị “như vậy”.
Pháp tướng “như vậy”, nó diệt “như vậy”.
Pháp tướng “như vậy”, nó sanh ác pháp.
Pháp tướng “như vậy”, nó sanh thiện pháp.
Pháp trụ, dị, diệt, cũng sanh thiện pháp và ác pháp “như vậy”.
Tóm lại tu học Vô Lượng Nghĩa là tu học cách quán chiếu Thật Tướng các pháp. Tu học nhận thức về cái tự tánh “Như Thị” thanh tịnh bản nhiên của hiện tượng vạn pháp cho đến khi tự mình thể nhập cái chân lý “Thật Tướng Vô Tướng” “Vô Tướng Bất Tướng” (Thật tướng của vạn pháp là không mà ý niệm không cũng không lưu giữ).
Bồ tát tu học Đại thừa Vô Lượng Nghĩa, chuẩn bị cho mình một tư thế sẵn sàng để tiếp thọ tư tưởng “Duy Nhất Phật Thừa Vô Hữu Dư Thừa Nhược Nhị Nhược Tam” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa (chỉ có một Phật thừa duy nhất, không có thừa nào khác để gọi là hai hoặc ba).
Với giáo lý vô thượng thậm thâm vi diệu đó, nên kinh Vô Lượng Nghĩa và kinh Diệu Pháp Liên Hoa là thứ chân lý “Duy Hữu Phật Dữ Phật Nãi Năng Tri Chi” (Chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ nguồn giáo lý đó).
Xét cho cùng, thì Như Lai thường trụ trong chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, chứ không phải chỉ có cơ hội sau khi nói kinh Vô Lượng Nghĩa Như Lai mới nhập định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp, Như Lai lúc nào chẳng có!
Tướng Lông trắng giữa đôi mày Phật là một tướng trong 32 tướng của Phật. Còn ánh sáng thông thường người ta gọi là “hào quang” của Phật. Hào quang có phóng hay không phóng là một vấn đề khác cần phải học và hiểu kỹ về Phật thì người đệ tử Phật mới tránh được bệnh chấp ảo tưởng hoang đường.
Nội dung kinh Pháp Hoa, về việc phóng ánh sáng (người đời thường linh thiêng hóa bằng cái từ “hào quang”) trước sau đức Phật sử dụng ba lần khác nhau, để nói lên công dụng khác nhau về giáo lý mà đức Phật muốn truyền đạt cho Pháp Hoa hải hội từng lúc khác nhau.
Ở phẩm Tựa nầy, đức Phật chỉ phóng ánh sáng lông trắng chặng giữa đôi mày (chỗ huyệt ấn đường) soi sáng khắp một vạn tám ngàn thế giới chư Phật ở phương Đông. Đại chúng xem thấy rõ việc làm của Phật trong sự nghiệp giáo hóa, thuyết pháp độ sanh. Thấy rõ các chúng Thanh văn tinh tấn tu hành nói pháp tứ đế. Thấy các Bồ tát đang thực thi lục độ trên đường tự lợi, lợi tha. Thấy rõ, có đức Phật đang chuyển pháp luân. Có đức Phật đang nhập Niết bàn. Có nơi trà tỳ thâu xá lợi…trên từ Trời Sắc cứu cánh nhìn thấu suốt địa ngục a tỳ, lục đạo chúng sanh thông đồng trông thấy lẫn nhau….
Một điểm “hào quang” tức là một chút “trí tuệ” Phật mà khiến cho mọi người trong đại chúng có khả năng nhìn những sự việc trong một vạn tám ngàn thế giới…Vừa thấy vừa nghe như cận kề trước mắt. Sự kiện nầy nhằm dạy cho toàn thể Pháp Hoa Hải Hội về “Trí Tuệ Phật” về “tri kiến Như Lai”. Rằng khi con người đủ khả năng sử dụng “Trí tuệ Phật” “Tri kiến Như Lai” thì một vạn tám ngàn thế giới cũng chẳng có gì ngăn sông cách núi.
Phóng hào quang lần hai, đức Phật sử dụng hai điểm. Một ở tướng bạch hào và một ở tướng vô kiến đảnh. Hai điểm hợp lại, khiến cho đại chúng trông thấy thế giới chư Phật nhiều như số cát 42 sông Hằng.
Phóng quang lần ba, ánh sáng phát ra từng lỗ chân lông Phật, toàn thể Pháp Hoa Hải Hội trông thấy Pháp Giới Nhất Chân. Cõi nước trong mười phương không còn ranh giới nữa.
Thế cho nên giáo lý: “chư pháp tương tức”, “nhất đa tương dung”, “đồng thời cụ túc tương ứng” cũng được hiểu ở nơi sự kiện “phóng quang” nầy (xin đọc thêm Kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên dịch giả). Để chứng minh sáng tỏ ý nghĩa đó, ta hãy đọc đoạn văn trùng tụng nầy:
….”Ngã kiến Đăng Minh Phật
Bổn quang thụy như thử
Dĩ thị tri kiến Phật
Dục thuyết Pháp Hoa Kinh
Kim tướng như bổn thoại
Thị chư Phật phương tiện
Kim Phật “phóng quang minh”
Trợ phát thật tướng nghĩa….
Có nghĩa là: xưa kia tôi thấy Phật Đăng Minh, phóng hào quang giống như hiện giờ. Vì vậy tôi biết hiện nay Phật sắp nói kinh Pháp Hoa. Điềm hôm nay y hệt điềm xưa. Đó là phương tiện của chư Phật. Nay Phật phóng hào quang, nhằm hổ trợ cho sự diễn bày “thật tướng”.
Vậy, nói đến “hào quang” phải hiểu là “Trí tuệ Phật”. Tùy trường hợp sử dụng trí tuệ ít hay nhiều, toàn diện hay chưa toàn diện và tầm nhận thức chân lý, nhận thức thế giới rộng hẹp khác nhau.
Sự thông đồng giữa một vạn tám ngàn thế giới của chư Phật…Và Lục đạo chúng sanh, nền triết lý “một tâm đủ mười pháp giới” của đạo Phật, được Phật khai thị một cách kín đáo qua sự kiện phóng quang nầy.
Bồ tát Di Lặc không biết duyên cớ của sự hiện điềm, thay mặt đại chúng hỏi để tìm hiểu duyên cớ. Bồ tát Đại Trí Văn Thù thì giải đáp một cách tận tường, khúc chiết. Kinh nêu ra sự kiện nầy, nhằm dạy cho người đệ tử Phật ghi nhớ và quan tâm vấn đề “nhân quả” và vấn đề “chủng tử” trong quá trình tu học ở thời đức Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa. Đại Trí Văn Thù là Bồ tát Diệu Quang thời đó. Ở thời kỳ Bồ tát Diệu Quang dạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho 800 đệ tử vững bước tiến tu trên đường Bồ đề thì Di Lặc lúc bấy giờ mang biệt hiệu là Bồ tát Cầu Danh, thường biếng trễ trên đường tu học.
Gieo hạt giống trí tuệ sâu, sẽ thành cái quả “Đại Trí”. Trồng cái nhân biếng trễ kết quả chỉ là Từ Thị Di Lặc vậy thôi.
Giáo lý của kinh Pháp Hoa thuộc về pháp lớn, thứ pháp chỉ để dạy cho những người có chủng tánh Đại thừa, khác với giáo lý dạy cho những hàng căn tánh Tiểu thừa. Phật nói kinh Pháp Hoa là tuông mưa pháp lớn; thổi còi pháp lớn, đánh trống pháp lớn. Thứ giáo pháp mà người đời khó nghe, khó hiểu và khó tin.
Ở nơi phẩm Tựa của Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật đã cho Pháp Hoa Hải Hội biết về cái nguyên tắc chung của ba đời chư Phật thường làm. Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh cách hằng hà sa số kiếp trước đã làm như vậy, hiện nay đức Phật Thích Ca cũng đang làm như vậy và Phật tương lai thì cũng thế. Lời nói của chư Phật là lời chân chính, chắc thật. Lời nói trước sau như một, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, không hề có dụng ý lừa dối phỉnh gạt người nghe.
Về phương diện thuyết pháp giáo hóa chúng sanh thì vì hạng căn cơ Thanh Văn Phật nói cho họ về pháp “Tứ diệu đế”, hầu mong ra khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn; vì hàng Duyên Giác nói cho họ về pháp “Thập nhị nhân duyên”; vì hàng Bồ tát nói pháp “Lục ba la mật” khuyến cáo thẳng tiến lên Bồ đề Vô thượng thành tựu Nhất Thiết Trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí của mình. Đó là thông lệ của ba đời chư Phật, trong sự nghiệp hóa độ chúng sanh.
Vấn đề 20.000 đức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, pháp của đức Phật nói: ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành. Phải hiểu vấn đề nầy, rằng: không những 20.000 mà 200.000 hay 200.000.000… đi nữa, pháp của các Phật nói ra cũng đều lành như vậy cả. Danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh vừa là danh hiệu Phật vừa là biểu trưng “Phật” là hiện thân của chân lý muôn đời trong sáng cũng như sự soi sáng của vầng nhật nguyệt vằng vặc muôn đời….
Đức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh thứ 20 ngàn, xuất thân từ gia tộc nhà vua. Tức nhiên là vinh hoa phú quý tột bậc. Có tám con ngoan, tức nhiên có hoàng hậu hiền. Vì muốn cầu quả Phật, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, con đường duy nhất là phải xuất gia, xuất gia xả đi cái “ta” cái “trẩm” của một đấng quyền uy tối thượng, sanh sát trong tầm tay ấy và để phủi giũ hết những cái sở hữu “của ta“, mênh mông một trời giang san cẩm tú! Bấy giờ, trước cảnh gió lộng trời thanh, trong những đêm trăng trong gió mát, nhìn giang san với tâm hồn thanh thoảng ngâm nga:
“Nhất phái thanh sơn cảnh sắc u
Tiền nhân điền thổ hậu nhân thu
Hậu nhân thu đắc mạc hoan hỉ
Hoàn hữu thu nhơn tại hậu đầu”
(Một dải giang san cảnh đẹp thanh
Cơ đồ người trước kẻ sau giành
Người sau cướp được khoan mừng vội
Chẳng mấy lâu sau có gả tranh.)
Thưởng thức được cái thi tứ đậm đà chân lý đó, thì ngày thành Phật, sao mai dần dần ló dạng.
Xuất gia hành đạo, thực ra không phải chuyện ngẫu nhiên, mà mỗi mỗi đều có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân có hai thứ: “viễn nhân”và “cận nhân”. Người chỉ có “viễn nhân” thì xuất gia trước, rồi chế ngự, bồi dưỡng, uốn nắn “thức tâm” sau. Người có “cận nhân” thì trau dồi chế ngự “thức tâm” trước, sau đó đủ điều kiện mới xuất gia hành đạo.
Cha xuất gia tu hành, độ các con, đắc thành chánh quả. Đấy là thể hiện theo nguyên tắc “viễn nhân”.
Ngược lại, con và vợ xuất gia tu hành độ vua cha thành tựu đạo quả. Sự thanh tịnh hóa “thức tâm” trước, là thể hiện theo nguyên tắc “cận nhân”. Như trường hợp Diệu Trang Nghiêm Vương phẩm thứ 27.
Thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa thời gian 60 tiểu kiếp, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh không rời chỗ ngồi mà Bồ tát Diệu Quang, 800 tử đệ cùng đại chúng không hề mỏi mệt và với thời gian ấy mà tưởng chừng như thời gian của một bữa ăn. Điều nầy nói lên sự kết quả to lớn của người nói và người nghe. Thể nhập “Pháp Hoa Tam Muội”, nhận thức được chân lý “Pháp giới nhất chân”, “Chư pháp tương tức, tương dung, tương ứng” thì ngay điểm thời gian hiện tại có đủ mười đời. “Thập thế cách pháp dị thành môn” vì thời gian cũng tương tức, tương dung, tương ứng.
(Xin đọc thêm “Thập huyền duyên khởi” có giảng rõ ở kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên soạn giả)
Sanh tử là việc bình thường, từ ngàn xưa, con người đã chấp nhận sự thật đó. Hễ có sanh tất phải có tử. Chỉ khác nhau ở điểm chúng sanh thì “sanh tử bì lao” đau đớn, khổ sở triền miên, vì cái nhân đa dục. Còn Phật “sanh thuận tử an” sống chết là thuận theo chân lý biến dịch tuần hoàn của vạn pháp, cho nên cái chết của Phật gọi là “nhập Niết bàn”.
Vấn đề thọ ký cũng được báo trước trong ánh hào quang, để chuẩn bị tư tưởng cho đại chúng trong hội Pháp Hoa khỏi ngạc nhiên và bở ngỡ sau nầy. Vì Phật sẽ thọ ký dài dài cho nhiều đối tượng, nói đúng hơn, cho tất cả mọi căn cơ.
Giáo lý kinh Pháp Hoa là thứ chân lý Đại Thừa liễu nghĩa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nói, Bồ tát Diệu Quang thuộc hàng đệ tử tiếp tục truyền bá kinh Pháp Hoa, dẫn dắt tám vị vương tử tu hành đều thành Phật.
Người nghe được kinh Pháp Hoa là người trồng sâu căn lành cho nên sớm muộn gì rồi cũng được thành Phật. Một Bồ tát có biệt hiệu là Cầu danh, nghe qua là có thể biết đạo hạnh của vị Bồ tát thế nào rồi. Dù vậy, cũng đã tiếp thu gieo giống Pháp Hoa cho nên hạt sen Pháp hoa đến thời Phật Thích Ca đã trổ bông bảy tám chục phần trăm mở bày cánh nhụy.
Văn Thù và Di Lặc trong cương vị Bồ tát, có hơn kém nhau trong mức độ phần trăm nào đó, chỉ vì khi gieo giống có trước có sau, có nông sâu, từ khi cùng tu học dưới thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa ấy.
Thuật lại một sự kiện xưa để đoán định hiện tượng đang xảy ra hiện tại, để kết luận rằng: Phật sắp nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nói cách đây vô lượng hằng sa kiếp trước.
Trong sự kiện phóng quang ngầm tuyên cáo với tất cả chúng sanh hậu thế rằng những việc Phật nói, Phật làm trong kinh Pháp Hoa để dạy cho chúng sanh là việc của chư Phật quá khứ đã nói, đã dạy, đã làm. Chẳng những thế, mà chư Phật vị lai cũng nói, cũng dạy và cũng làm như vậy.
Ánh sáng mặt trời nóng, mặt trăng mát, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai thì ai cũng nói như vậy thôi!
*****
PHẨM 2
PHƯƠNG TIỆN
Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định bảo Xá Lợi Phất: Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bích Chi Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tùy cơ nói pháp ý thú khó lường.
Xá Lợi Phất! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo, linh hoạt trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các Ba la mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô ngại trí, thập trí lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.
Như Lai tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở thích của nhiều hạng căn cơ.
Nhưng thôi đi! Xá Lợi Phất! Không cần nói nữa!
Bởi vì pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết thấu tột “Thật tướng”. Rằng:
“Các pháp:Tướng của nó như vậy.
Tánh của nó như vậy.
Thể của nó như vậy.
Lực của nó như vậy.
Tác của nó như vậy.
Nhơn của nó như vậy.
Duyên của nó như vậy.
Quả của nó như vậy.
Báo của nó như vậy.
và từ đầu chí cuối của nó như vậy.
Bấy giờ có một số Thanh văn, Duyên giác, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý nghĩ rằng: Lạ thật! Cớ chi hôm nay đức Phật tán thán pháp của Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu….nào là Như Lai phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể hiểu được….!
Tại sao Như Lai nói thế! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức Phật như có ý chê trách những điều tu học và chứng đắc của hàng Thanh văn, Duyên giác bấy lâu nay!
Ông Xá Lợi Phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:
Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp phương tiện nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật ? Hiện giờ bốn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ về duyên cớ ấy!
Phật bảo: Xá Lợi Phất! Thôi! Thôi đi! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả người, trời, A tu la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngờ, không tốt.
Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải hội nầy có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ sức kính tin.
Đức Phật lại khuyên ngăn: Rằng nếu nói việc đó thì người, trời, A tu la đều kinh nghi, Tỳ kheo, tăng thượng mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi.
Ông Xá Lợi Phất lại ân cần cầu xin Phật rủ lòng thương….
Sau ba lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá Lợi Phất, đức Phật vừa hứ khả, tức thì trong hải hội có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật, xin được rút lui.
Đức Thế Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá Lợi Phất: Rằng trong đại chúng giờ đây không còn những trái đèo hạt lép mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc.
Xá Lợi Phất! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi vẫn tốt. Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời nầy.
Này! Xá Lợi Phất! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem ra nói. Như hoa Linh thoại đến thời tiết mới trổ một lần.
Xá Lợi Phất! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối tượng, hợp căn cơ cho mỗi người, mỗi lúc khác nhau. Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo léo, đáp ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói không thể suy lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ có Phật và Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau.
Xá Lợi Phất ơi! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời!
Nầy, Xá Lợi Phất! Chư Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:
- Mở bài và giới thiệu “Tri kiến Phật” của chúng sanh
- Vận dụng ngôn từ, tỷ dụ khéo léo để “chỉ” Tri kiến Phậtcủa chúng sanh cho chúng sanh biết.
- Hướng dẫn cho chúng sanh “hiểu kỹ” về Tri kiến Phật của mình.
- Khuyến cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri kiến Phật mà mình vốn có.
Đó là lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!
Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một “Phật thừa” chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác. Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, tỷ dụ dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh “một Phật thừa” khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành “Nhất thiết chủng trí”.
Xá Lợi Phất! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri kiến Phật “chỉ” cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ về Tri kiến Phật và thể nhập, sống trong Tri kiến Phật của chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa làm gì lại có đến ba! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa tạm nói có ba.
Xá Lợi Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có thừa nào khác, mà chỉ có một “Phật thừa” thôi!
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
…Xá Lợi Phất! Nên biết
Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn tất cả chúng sanh
Bằng như ta không khác
Như ta xưa đã nguyện
Nay đã viên mãn rồi
Độ tất cả chúng sanh
Đều khiến vào Phật đạo
… Xá Lợi Phất! Nên nhớ
Ta vì bày phương tiện
Nói các đạo diệt khổ
Chỉ cho họ Niết bàn
Ta dù nói Niết bàn
Mà không thật diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tướng nó thường vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Sau đó được thành Phật
…Nếu có hạng chúng sanh
Nghe pháp Phật tu hành
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
…Các Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá lợi
Nhóm đất làm tháp Phật
Những hạng người như thế
Đều đã thành Phật đạo
….Các đồng tử vui chơi
Nhóm cát thành miếu Phật
Những trẻ con như thế
Đều đã thành Phật đạo
Nếu có người mến Phật
Chạm trỗ các hình tướng
Nắn vẽ hình tượng Phật
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
…Có người trước tháp miếu
Dùng hoa, hương, phan lọng
Thành kính mà cúng dường
Ca ngâm khen ngợi Phật
Nhẫn đến tiếng thì thầm
Đều đã thành Phật đạo
…Hoặc người tâm tán loạn
Vào trong tháp miếu Phật
Một xưng nam mô Phật
Đều đã thành Phật đạo
…Với chư Phật quá khứ
Tại thế hoặc diệt độ
Nghe tin chư Phật ấy
Đều đã thành Phật đạo
…Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật
Các Phật vốn thệ nguyện
Tu hành thành Phật đạo
…Phật là thầy trong đời
Thường phương tiện tùy nghi
Diệt bỏ tâm nghi hối
Tự biết sẽ thành Phật.
THÂM NGHĨA
Vận dụng “phương tiện” nhằm đạt đến chỗ “cứu cánh”…Cũng như khi người ta sử dụng “sách lược” nhằm đạt đến “mục đích lý tưởng”…Vận dụng “phương tiện” để đạt đến cứu cánh là chủ trương phương cách giáo hóa, uốn nắn thực hiện theo con đường “vương đạo”; sử dụng “sách lược” để đạt đến mục đích là do tính thủ đoạn cai trị, theo con đường “bá đạo” nói theo ngôn từ của các nhà chánh khách, thời xưa.
“Phương tiện” trong việc giáo hóa, có nghĩa là “Nói vậy mà chưa phải vậy”. Bảo rằng: “Học vậy đi! Hiểu vậy đi! Làm vậy đi! Lợi ích lắm đó! Tốt lắm đó! “Nhưng cái lợi ích và sự tốt đó, chưa phải là cái “lợi ích” cứu cánh và muốn đạt đến cái “tốt” cứu cánh, cần phải học, phải hiểu, phải làm nhiều hơn nữa. Bấy giờ sự học, hiểu và việc làm đó mới đến nơi đến chốn, mới đến chỗ cứu cánh trọn vẹn…
Vì sao hơn 40 năm thuyết pháp, Phật chỉ dùng “phương tiện” giáo hóa chúng sanh ?
Tại vì, Phật xuất hiện ra đời với mục đích cao đẹp “tuyệt trần” mà trong khoảng thời gian đó, Phật chưa thể nói rõ ra được.
Tại vì chúng sanh đang sống trong cuộc đời đầy năm trược ác, cấu chướng nặng nề, ba nghiệp không lành, sáu căn chưa trong sạch, nếu dạy pháp tu hành “thành Phật” chúng sanh ngần ngại khó khăn.
Tại vì, nói chúng sanh có khả năng thành Phật, chúng sanh không dám tin nhận ở khả năng mình.
Thế cho nên Như Lai phải vận dụng “phương tiện” mà dẫn dụ, uốn nắn, bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sanh một cách dần dần, ngay từ thời thuyết pháp đầu tiên ở Lộc giả uyển, thành Ba la nại….
- Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Sự xuất thế của Như Lai và trí tuệ của Như Lai có, không phải là sự ngẫu nhiên do sự đưa đẩy trôi xuôi theo dòng nghiệp lực…
- Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với chúng sanh về hoài bảo duy nhất và mục đích tối thượng của Như Lai ngay lúc bắt đầu cuộc hành trình thuyết giáo độ sanh, nhưng Như Lai chưa nói rõ ra được điều đó.
- Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với hàng Thanh Văn, Duyên Giác, rằng pháp mà như Lai dạy cho họ chỉ là pháp “Tiểu thừa” và Niết bàn họ chứng đắc chưa phải là thật diệt độ, nhưng hơn 40 năm qua, Như Lai chưa nói điều đó.
- Lẽ ra “mười hai bộ kinh”, Như Lai phải bình đẳng dạy cho tất cả chúng sanh, nhưng vì căn tánh không đồng, đối với hạng chủng tánh Nhị thừa Như Lai dạy cho họ chỉ có chín kinh.
- Lẽ ra từ lâu, Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh đều sẵn có Tri kiến Phật, nhưng Như Lai đã bí mật dấu hẵn điều nầy vì căn cơ của chúng sanh còn thấp kém chưa đủ trí tuệ để tiếp thu.
- Lẽ ra, trước đây Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: tu hành là “thành Phật”, không có quả Nhị thừa, Tam thừa nào khác, nhưng từ lâu nay, Như Lai nói có. Vì đó là phương tiện của Như Lai.
- Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh là Phật, nhưng cho đến bây giờ, trước giờ phút nhập Niết bàn, Như Lai mới mở kho tàng bí mật, để giao trọn gia tài pháp bảo vô giá của Như Lai cho tất cả chúng sanh.
Trong quá trình thuyết giáo độ sanh, với một lập trường kiên định và linh hoạt tuyệt vời, Như Lai vận dụng “Tứ tất đàn” một cách vô cùng phong phú. Nhờ vậy, mọi căn cơ đều được thấm nhuần mưa pháp. Người học Phật không được lảng quên tiêu chuẩn:
- Thế giới tất đàn
2. Vị nhân tất đàn
3. Đối trị tất đàn, và
4. Đệ nhất nghĩa tất đàn.
Để hiểu một cách quyết định và tin sâu về “Tri kiến Phật”, về “Phật tánh” của mình, người học kinh Pháp Hoa còn phải am tường về nguồn giáo lý “Lục tức Phật”:
- Lý tức Phật
2. Danh tự tức Phật
3. Quán hành tức Phật
4. Tương tợ tức Phật
5. Phần chứng tức Phật
6. Cứu cánh tức Phật
Dựa trên nền giáo lý “Lục tức” mỗi người có thể tự nhận xét và đánh giá địa vị “đã thành Phật” của mình.
*****
PHẨM 3
THÍ DỤ
Lúc bấy giờ Ông Xá lợi Phất hớn hở vui mừng, đứng dậy cung kính chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật và bạch rằng: “Hôm nay con được nghe những điều Phật dạy, lòng con hân hoan chưa từng có. Bao nhiêu nghi ngờ của con đã hết. Trước kia con thường nghĩ ngợi và tự hỏi: Phật cũng ở trong Pháp tánh như mình, cớ sao Phật được là Phật, còn mình thì lại không ? Cớ sao Như Lai lại đem pháp “Tiểu thừa” mà dạy cho ? Cớ sao các Bồ tát được thọ ký thành Phật, còn mình chẳng được dự vào việc đó ? Con tự cảm thương mình! Chẳng lẽ mình mất hết vô lượng Tri kiến Phật, mất hết khả năng thành Phật hay sao” ? Nay nghe Phật dạy, con mới hiểu rằng, lỗi tại chúng con, vì mê mờ thiển cận, vừa được nghe pháp phương tiện là đã vội ham, tư duy tu tập để cầu chứng đắc. Nay con đã hiểu rõ, rằng giáo lý Tiểu thừa là “pháp phương tiện” tùy nghi dẫn dụ của Như Lai. Dù “chứng đắc Niết bàn” nhưng chưa hoàn toàn diệt độ. Giờ con rất sung sướng tự biết mình là con thật của Phật. Từ kim khẩu Phật sanh ra, từ pháp hóa của Phật sanh ra, con được dự phần trong “Phật tánh và Pháp tánh” vô thượng.
Ông Xá lợi Phất thưa tiếp: “Lúc mới nghe Phật “thọ ký” con sẽ thành Phật, con nghi ngờ tự hỏi có phải ma giả Phật để não loạn lòng con. Nhưng sau nhờ những tỷ dụ của Phật, con mới hết nghi và tin quả quyết rằng con sẽ thành Phật”.
Đức Phật lại bảo: Xá lợi Phất! Ta xưa đã từng giáo hóa ông, từng dẫn dắt ông trong thời gian dài ở hai muôn ức Phật. Ta hướng dẫn ông đi trên con đường thành Phật, nhưng ông lại quên mà tưởng là diệt độ trong khi chưa đến đích. Nay ta muốn cho ông nhớ lại chí nguyện thành Phật xưa kia mà vì hàng Thanh Văn nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm nầy. Như Lai cũng nói trước cho ông biết, trong vị lai vô số kiếp, ông cúng dường vô số Phật, phụng trì chánh pháp làm đủ đạo Bồ tát rồi ông sẽ thành Phật hiệu Hoa Quang Như Lai đủ mười đức hiệu, nước tên Ly Cấu, kiếp tên Đại Bảo Trang Nghiêm. Số Bồ tát được ông giáo hóa nhiều vô lượng.
Xá lợi Phất! Đức Hoa Quang Như Lai sau đó “thọ ký” cho Bồ tát Kiên Mãn sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai đủ mười đức hiệu và cõi nước cũng trang nghiêm như vâỵ.
Đại chúng thấy Phật “thọ ký” ông Xá lợi Phất được thành Phật, vui mừng hớn hở, mỗi người cởi thượng y của mình dâng lên cúng Phật.
Xá lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! “Trước kia Phật thường dạy: “Giáo pháp của Như Lai có công năng xa lìa sanh, già, bệnh, chết và được cứu cánh Niết bàn”. Các hàng Thanh Văn đã nghe và hành theo, ai cũng tưởng là mình được Niết bàn rồi. Nay Phật lại đưa ra giáo pháp chưa ai từng nghe: Rằng “Niết bàn ấy chưa phải rốt ráo tịch diệt, mà rốt ráo phải thành Phật”. Con e sợ hàng Thanh Văn còn chỗ nghi ngờ. Cúi xin Thế Tôn, vì bốn chúng giải thích rõ ý thú của lời Phật”.
Phật bảo: Trước kia Như Lai há chẳng nói rằng, tất cả giáo pháp của Phật dạy đều là phương tiện đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đó sao ? Nhưng thôi, để cho người trí hiểu được Như Lai có cái thí dụ nầy:
Trong một xứ nọ, có ông Trưởng giả giàu to của cải vô lượng, nhưng tuổi đã già suy. Nhà của ông rộng lớn chứa rất nhiều người, trong số có các con của ông, nhưng phải cái nguy là ngôi nhà mục nát, cột kèo ngả đổ, vách phên xiêu sập, rắn rít rất nhiều, thêm nỗi lửa cháy bốn bề mà lối ra thì chỉ có một cửa.
Ông Trưởng giả đứng ngoài lo sợ cho các con, nghĩ bụng rằng: Ta có thể xông vào cứu chúng, nhưng nhớ đến cửa nhỏ hẹp, sợ các con dùng dằng không đem ra được hết. Trong lúc nguy hại trước mắt các con của ông cứ đùa giỡn vui chơi, không biết sợ sệt gì hết và cũng không có ý muốn ra, vì không biết nhà cháy là gì, lửa là gì!
Ông Trưởng giả bèn lập kế, ông hô to: “Các con! Cha có những đồ chơi đẹp lắm đây. Xe dê, xe hưu, xe trâu trắng, xe nào cũng đẹp đẽ trang sức lộng lẫy, các con mau ra tự chọn lấy xe theo ý thích”.
Các con ganh đua xô đẩy lẫn nhau kéo nhau chạy ra khỏi nhà cháy. ông Trưởng giả rất mừng khi thấy các con được an ổn. Ở nơi ngã tư đường không còn nguy hại.
Bấy giờ các con xúm lại đòi đồ chơi, với ước muốn riêng, xe dê, xe hưu theo ý thích, nhưng ông Trưởng giả chỉ ban cho các con đồng một thứ xe lớn tốt đẹp vô cùng, đầy đủ tiện nghi trang hoàng lộng lẫy. Vì sao, ông Trưởng giả không cho ba thứ xe lớn nhỏ, tốt đẹp khác nhau mà lại cho đồng một thứ xe tuyệt đẹp. Vì ông Trưởng giả quá giàu, kho tàng đầy ngập, của cải vô lượng!
Đến đây, đức Phật hỏi ông Xá lợi Phất: “Ông Trưởng giả trước hứa cho ba thứ xe, nay lại cho có một thứ, mà là thứ lớn, đẹp nhất. Vậy ông Trưởng giả có lỗi nói dối không” ?
Ông Xá lợi Phất đáp: “Dạ không. Giả như cho chiếc xe nhỏ và xấu nhất, ông Trưởng giả cũng không có lỗi nói dối, huống gì cho chiếc xe lớn và đẹp nhất. Vì sao ? Vì việc hứa cho xe chỉ là một sách lược, một phương tiện, nhằm cứu các con ra khỏi nhà lửa đang ngùn ngụt cháy”.
Phật khen: Đúng vậy, Xá lợi Phất! Như Lai là cha cả của tất cả thế gian. Tuy đã ra khỏi thế gian nhưng vẫn vì sự lợi ích của thế gian mà trở vào nhà lửa tam giới cũ mục nguy hiểm nầy để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, tham lam, hung bạo, si mê, tắm mình trong biển độc hại khổ đau. Sống trong cảnh khổ nhà cháy như thế mà chúng sanh vẫn cứ vui chơi hỉ hả, chẳng hay mình bị lửa đốt, không sợ, không nhàm, không có ý cầu ra khỏi.
Trong việc cứu độ chúng sanh, Như Lai đã từng suy nghĩ: Đem trí tuệ thần thông, giảng nói các tri kiến, trí lực, vô sở úy….của Như Lai không thể được. Vì chúng sanh đang dong duỗi, nô đùa trong rừng vô minh tam độc, bị thiêu đốt trong nhà lửa sanh, già, bệnh, chết, khổ não, ưu bi thì làm gì nghe hiểu mà tiếp thu. Do vậy, Như Lai phải dùng phương tiện, quyền lập pháp tu: Một là Thanh Văn thừa (xe dê). Hai là Duyên Giác thừa (xe hưu). Ba là Bồ tát thừa (xe trâu trắng). Đó là Như Lai vận dụng phương tiện đáp ứng căn cơ của mỗi hạng chúng sanh.
Ông Trưởng giả cho đều các con mỗi đứa một cỗ xe to đẹp, khi chúng ra khỏi nhà lửa. Như Lai cũng vậy, khi chúng sanh ra khỏi sự khổ não, ưu bi, sanh, già bệnh, chết, bất luận là Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ tát, Như Lai bèn cho cái vui tuyệt đỉnh là: Thiền định, trí tuệ và Tri kiến Phật…..là những cỗ xe đưa đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ông Trưởng giả kia, đức Phật không phạm tội nói dối.
Xá lợi Phất! Vì nhân duyên đó, các Như Lai dùng sức phương tiện: chỉ có một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.
THÂM NGHĨA
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn, Như Lai mới nói thật hoài bão của mình. Thì ra trong quá trình thuyết giáo độ sanh đăng đẳng hơn 40 năm, Như Lai sử dụng vô số “phương tiện”.
Hiểu được chủ ý của Phật, ông Xá lợi Phất trút bỏ gánh nghi ngờ, ân hận, trách phận, thương thân, ông tự xác định lỗi do mình “hấp tấp” vừa nghe pháp “phương tiện” vội ham…….mong cầu chứng đắc Niết bàn. Giờ nghe Phật dạy, con biết rõ quả chứng của Tiểu thừa dù được Niết bàn, nhưng chưa phải là thật diệt độ. Thật diệt độ, phải là người đi cỗ xe Vô thượng Chánh Biến Tri Giác. Và đến đây ông tự xác định ông có điều kiện, đủ khả năng đi trên cỗ xe lớn đó. Ông tự nhận một cách quả quyết rằng mình là Phật tử (Tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần cố danh Phật tử).
Với nguồn giáo lý tiểu thừa, đức Phật dạy cho họ có chín bộ kinh. “Phương quảng”, “thọ ký” và “vô vấn tự thuyết” đối với người Tiểu thừa Phật chưa đề cập đến. Vì vậy với hàng Thanh văn được “thọ ký” thành Phật là một sự bất ngờ sửng sốt, quá sức tin hiểu của mình. Nhưng giờ thì ông Xá lợi Phất đã hiểu chân lý đó.
Trong nguồn giáo lý Phật dạy cho Tiểu thừa vẫn có mầm mống Đại thừa. Vả lại, trong những thời của hai muôn đức Phật xa xưa, Xá lợi Phất và Phật đã từng gieo trồng hạt giống Đại thừa: “Thế thế thường hành Bồ tát đạo”. Nếu không vậy, làm sao có sự hội ngộ ngày nay.
Đức Phật nói: “Nay tôi muốn ông nhớ lại chí nguyện thành Phật xưa kia và vì hàng Thanh văn mà nói kinh:
“Đại thừa Diệu pháp Liên hoa Giáo Bồ tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm” nầy.
Ông Xá lợi Phất là người được Phật “thọ ký” trước hết trong số những đối tượng được “thọ ký” ở kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nguồn tư tưởng của kinh Pháp Hoa và vấn đề thọ ký thành Phật được xem là chân lý phổ biến. Vì là chân lý cho nên đó là việc của ba đời chư Phật đã làm, đang làm và sẽ làm. Được Phật “Thọ ký thành Phật” là một việc. Điều kiện thành Phật lại là việc phải đặc biệt quan tâm.
Tâm trạng nghi ngờ của hàng Thanh văn không có gì đáng trách. Pháp Tứ đế, Phật dạy, họ đã tu hành, Niết bàn tịch diệt giáo lý Phật nói ra, họ đã chứng. Nay thì Phật nói Niết bàn của Thanh văn, La Hán quả chưa phải là đích đến cuối cùng.
Ở phẩm nầy, kinh dùng một thí dụ để giải thích tại sao chỉ có một “Phật thừa” mà trước kia Phật lại dạy có ba (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
Trong thí dụ hỏa trạch (nhà bị cháy). Ông Trưởng giả chỉ Phật. Những đứa con chỉ chúng sanh. Lửa cháy, mục nát, rắn rít….chỉ cảnh thống khổ: sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não của chúng sanh trong “tam giới”. Ba xe, dụ ba thừa, hay ba bậc tu hành là Thanh văn, tiểu quả, ví xe dê. Duyên giác trung thừa, ví xe hưu. Bồ tát hay Phật thừa, ví xe trâu trắng lớn.
Xe nhỏ, ví hạng người chỉ có khả năng tự độ, không giúp ích được cho người khác. Xe lớn, ám chỉ tánh tích cực của hạng người ngoài phần tự độ còn xem trọng việc độ tha.
Sở dĩ từ lâu Phật nói tam thừa vì chúng sanh ham mê cuộc sống “dục vọng” cuộc sống “vật chật” và những niệm tưởng “trừu tượng hoang đường” của ba cảnh giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới). Phật không thể đem chân lý Liễu nghĩa Đại thừa ra mà dạy. Giả sử có đem ra dạy chúng sanh cũng không hiểu, cũng chẳng tiếp thu. Do vậy, Phật phải dùng “phương tiện” dạy pháp tu tập lần lần (tiệm tu, tiệm ngộ, tiệm chứng) tùy khả năng của từng hạng người để ai cũng được có phần an ổn thanh thoát. Khi căn cơ, trình độ nhận thức của chúng sanh có khả năng tiếp thu, bấy giờ mới đem thứ giáo pháp “đệ nhất nghĩa” ra mà dạy.
Những người con của ông Trưởng giả ra khỏi nhà cháy, ám chỉ chúng sanh nhờ sự dẫn dụ của giáo lý tam thừa mà ra khỏi ba giới: Dục, Sắc và Vô sắc được an ổn, thanh thoát gọi là Niết bàn.
Ông Trưởng giả cho các con một thứ xe lớn nhất và đẹp nhất khi các con ra khỏi ngôi nhà lửa. Cũng như đức Phật cho hàng Thanh văn, Duyên giác giáo pháp Đại thừa liễu nghĩa là thứ giáo pháp hoàn bị tột mức trên con đường chuyển hóa tâm linh, từ phàm đến thánh, từ chúng sanh đến địa vị Phật.
Ngôi nhà rộng lớn mà chỉ có một cửa ra, ám tỷ ba cõi (cảnh giới) thênh thang không ranh giới, nhưng muốn ra khỏi chỉ có một con đường, con đường “bát chánh” và một cửa, cửa “tam giải thoát môn”.
Cửa tuy mở nhưng khó ra, tại vì không có người muốn ra: chỉ vì chúng sanh mãi mê dục lạc trong ba cõi, mà không nhận biết sự nguy hiểm của sanh, lão, bệnh, tử, khổ não, ưu bi…..
Ông Trưởng giả chỉ “ứng thân Phật” xuất thế cứu độ chúng sanh, vì lợi lạc mọi căn cơ mà vận dụng phương tiện thuyết giáo có tam thừa, nhưng mục đích tối hậu nhằm hướng dẫn mọi chúng sanh thể nhập “Phật thừa tự tánh” vốn có.
Cũng như ông Trưởng giả hứa cho các con ba xe, rốt cuộc lại cho có một. Đức Phật hơn 40 năm thuyết Tam thừa, giờ đây, Phật nói chỉ có một Phật thừa chứ không có thừa nào khác.
Đứng trên lập trường “đệ nhất nghĩa” thì chỉ có một Phật thừa, chứ không có “ba thừa”.
Khi đề cập “tam thừa”, “ngũ thừa”, phải hiểu đó là phương tiện của Như Lai.
*****
PHẨM 4
TÍN GIẢI
Ông Tu-bồ-đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Mục Kiền Liên thấy Phật thọ ký cho Xá lợi Phất sẽ được thành Phật vui mừng hớn hở và phát khởi lòng tin kiên cố, rằng rồi đây mình sẽ được thành Phật. Ở trước Phật, các ông cùng nói lên lời tự trách rằng chúng con từ lâu đã tự cho rằng mình đã được Niết bàn và tự thấy đã thỏa mãn với pháp thiền: Không, Vô Tướng, Vô Tác của Tiểu thừa, không có ý chí tiến lên cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Để chứng minh sự “tin hiểu” của mình, các đại đệ tử này xin nói một thí dụ:
Có một người, lúc nhỏ bé đã bỏ nhà bỏ cha đi hoang, sau mấy mươi năm rày đây mai đó phiêu bạt, lại thêm nghèo khổ rách rưới lang thang, phải đi xin mà độ nhật. Tình cờ chàng ta trở về đến xứ sở mà không hay biết.
Thời gian ấy cha của chàng tìm con khắp nơi mà không gặp. Ông là Trưởng giả một nhà giàu lớn, châu báu đầy kho, tài sản vô lượng, tôi trai tớ gái đầy nhà. Ông chẳng những là một nhà giàu trong nước mà còn là người giao dịch thương mại lớn, của cải vô số ở khắp nhiều nước khác.
Không nói với ai về việc cha con ly biệt, ông thường suy nghĩ: Ta nay giàu có thế này mà con không có, một mai chết đi thì sự nghiệp nầy giao phó cho ai, chắc phải mất hết. Ước gì ta gặp được con giao phó gia tài cho nó thì lúc chết được an lòng.
Một hôm đứa con lạc loài tình cờ đến trước nhà cha mà không biết. Đứng ngoài cổng ngó vào, thấy Trưởng giả sang trọng uy nghiêm, đang ngồi trên ghế cao, xung quanh có đông người hầu hạ, trong nhà thì ngọc ngà châu báu không biết bao nhiêu. Chàng ta đâm hốt hoảng thầm nghĩ là mình lạc đến chỗ vua chúa. Nghĩ vậy, chàng sợ bị bắt, lén bỏ đi tìm một xóm nghèo hợp với tình cảnh chàng để kiếm việc làm lấy tiền độ nhật.
Nhưng Trưởng giả đã thấy và nhận biết chàng cùng tử ấy là con mình. Ông liền sai hai gia nhân theo bắt chàng lại.
Bị bắt chàng ta sợ quá, van xin mà không được tha, chàng ngã xuống đất chết ngất.
Ông Trưởng giả thấy vậy ra lệnh: Thôi ta không cần con người ấy nữa đâu, hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh rồi cho đi, đừng nói gì với nó nữa.
Biết con mình quen sống với cảnh nghèo hèn, ty tiện nay nếu đột nhiên nhận nó là con mình và mình lại giàu sang tột bậc, chắc chắn nó không tin mà còn đem lòng sợ sệt. Chi bằng thả nó đi rồi lập kế mà dẫn dụ nó.
Ông Trưởng giả mật sai hai người giả dạng bần khổ, tìm đến anh chàng cùng tử, rủ đi làm thuê với công việc hốt phân. Khi nghe biết được trả công gấp đôi, chàng cùng tử nhận lời và cả ba vào làm việc hốt phân, ở nhà sau vườn ông Trưởng giả.
Thấy con tiều tụy phân đất bẩn thỉu khắp mình, Trưởng giả thương xót quá, ông thay bỏ áo quần tốt đẹp sang trọng, mặc đồ thô rách lấm nhơ để lân la với ba người hốt phân. Một hôm ông Trưởng giả bảo chàng cùng tử: Anh này, nên tiếp tục làm việc ở đây đừng đi đâu nữa. Ta sẽ thêm tiền công cho. Nhà ta giàu có của cải vô số muốn cần dùng gì tùy ý ta sẽ thuận cho hết. Từ nay về sau cứ xem như con đẻ của ta và hãy gọi ta là cha nhé! Nói xong ông Trưởng giả gọi chàng cùng tử bằng con. Chàng ta rất mừng, nhưng chàng vẫn tự đặt mình là kẻ hạ tiện làm thuê.
Ít lâu sau, ông Trưởng giả có bệnh cho kêu anh chàng đến, giao cho anh việc quản lý gia tài và cho anh được quyền xuất nhập bất cấm trong nhà. Anh làm tròn bổn phận, nhưng không bao giờ dám tiêu xài quá số tiền sinh nhật của anh. Ở thì cũng ở nhà sau, chỗ cũ không dám tự tại lui tới nhà trên.
Thời gian lâu sau, Trưởng giả biết mình sắp lìa trần, và đứa con nay đã thông minh có chí lớn. ông bèn hội hết thân tộc, trước mặt vua quan ông chỉ chàng cùng tử mà tuyên bố: Anh này là con ruột của tôi. Bấy lâu xa cách, vì nó bỏ nhà ra đi từ lúc bé. Nay cha con chúng tôi được trùng phùng, tôi giao cho nó tất cả gia tài của tôi mà trước đây nó đã quản lý và biết rõ.
Người con nghe nói mừng quá, cho là việc chưa từng có và tự nghĩ: “Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng châu báu này tự nhiên mà đến”.
Nói câu chuyện “thí du” xong, ông Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên…bạch Phật:
Ông Trưởng giả ví như đức Như Lai, còn chúng con thì như chàng cùng tử thất lạc bỏ cha bỏ nhà…Như Lai là cha, chúng con là con Phật mà không biết.
Chúng con vì ba món khổ mà trong cảnh sanh, già, bệnh, chết, khổ não, sầu lo, chịu các sự mê lầm, ngu dốt cho nên ưa thích giáo pháp Tiểu thừa làm cái việc hốt phân tầm thường mà tự cho là thỏa mãn với cái giá trả công: Niết bàn.
Như Lai không “bắt”, không cưỡng bức chúng con đi theo con đường: Tất cả đều có phần hưởng thọ kho tàng tri kiến Như Lai mà thacho chúng con theo ý chí thấp hèn, rồi phương tiện thuận theo chúng con mà lần lần dạy bảo.
Chúng con là con của Phật mà không biết. Vì không biết nên không dám mong hưởng thọ cái sự nghiệp, cái gia tài vĩ đại của cha là Phật mà chỉ cam phận với số tiền làm thuê Nhị thừa. Ấy tại vì chúng con không dám nhận mình là con Phật nên Phật cũng không thể tự nhận là cha (không thể dạy pháp Đại thừa).
Nay thì kho tàng pháp bảo vô giá của pháp vương lại tự nhiên mà đến, không mong cầu mà được!
THÂM NGHĨA
Tín là đức tin, phát khởi lòng tin.
Giải là hiểu rõ, là tiếp thu được lời Phật ý kinh.
Nội dung phẩm Tín – Giải có hai ý chánh:
- Trước Phật, ông Tu bồ Đề, ông Đại ca Diếp….xin được nói lên nỗi vui mừng và lòng hối hận của mình trong những thời gian trước, đối với giáo lý Đại thừa.
- Xin được nói một thí dụ trình lên Phật về sứ tiếp thu và “tin hiểu” vững chắc của mình.
Nhận thức được thế nào là phương tiện, thế nào là cứu cánh qua lời dạy của Phật, ông Tu bồ Đề và Đại ca Diếp rất vui mừng. Trước Phật các ngài nói lên sự ăn năn tự trách, rằng từ lâu nay chỉ biết ham học pháp Tiểu thừa, trước hiện tượng vạn pháp thường quán niệm Không, Vô Tướng, Vô Tác. Với giáo lý xây dựng cõi Phật thanh tịnh, hóa độ chúng sanh, hòa quang đồng sự của Bồ tát hạnh, không có lòng ưa thích. Nay nghe được hàng Thanh văn sẽ được thành Phật, lòng vui mừng vô hạn. Chẳng khác nào vô lượng trân bảo không cầu mà được.
Đến đây, sự chuyển biến nội tâm và ý chí hướng thiện của Nhị thừa, không còn là ý niệm cá biệt. Ông Tu bồ Đề thay lời đại chúng xin được nói lên cái thí dụ Cùng Tử để trình lên Phật về sự Tín Giải của Nhị thừa, nói lên quá trình tiếp thu tin hiểu của hàng Thanh văn đã thâm hậu kiên cố.
Cùng Tử là đứa con bần cùng cơ cực. Bần cùng cơ cực vì bỏ cha, bỏ nhà đi hoang, cho nên cùng tử cũng có nghĩa là “đứa con hoang”.
Bỏ cha, bỏ nhà đi hoang có nghĩa là trước đây cha con cùng ở chung một chỗ một nhà. Chỗ đó là Viên Giác Diệu Tâm Thanh Tịnh Như Lai. Tất cả chúng sanh và Phật đều cùng một nguyên quán. Nói khác đi, nghĩa là cùng một bản thể chân tâm thanh tịnh sáng suốt tròn đầy mầu nhiệm. Nhưng từ khi bất giác, sống trái với chân tánh, bấy giờ tam tế(1), lục thô(2) diễn biến theo một tiến trình liên tục nghiệp thức. Khi cảm thọ sắc thân “nghiệp hệ” thì lục trần trở thành đối tượng có sức hấp dẫn cuốn lôi. Từ đó, bỏ nhà Viên Giác, xa đấng cha lành thành đứa con hoang, làm chàng “cùng tử”! một chút trí tuệ không có, đành chịu xoay vần lưu lạc.
Cha lúc nào cũng nhớ con, tìm con với ước mong tha thiết là giao hết cho con cái gia tài vô giá của mình, trước ngày nhắm mắt. Phật ra đời vì chúng sanh, tất cả cho chúng sanh, không lúc nào xao lãng nguyện vọng truyền trao trọn vẹn cho chúng sanh cái Tri Kiến Phật mà chúng sanh vốn có, trước khi nhập Niết bàn.
Cha bỏ xứ tìm con, chỉ cái việc Phật xuất thế, hạ trần vì chúng sanh mà vào đời ngũ trược.
Khi cha con gặp nhau thì quá cách biệt. Cha thì giàu có tột bậc, con thì nghèo khổ rách rưới lang thang. Cha thì biết rõ con mà con thì tự thấy mình quá hèn, quá thấp, không dám ngó thì còn nói chi tới việc nhìn cha. Phật xuất thế tìm đến chúng sanh nhưng Phật thì Chánh Biến Tri Giác Vô Thượng, còn chúng sanh thì vô minh dày đặc, nghiệp chướng nặng nề, một chút chánh kiến không có, thì ai mà dám bảo mình là con Phật (Phật tử). Ai dám nghĩ rằng mình có quyền thừa hưởng kho tàng pháp bảo của Như Lai ?
Đó là lý do, phát xuất từ ý nghĩ không chánh lý nhưng vì đó mà chúng sanh thường nảy sanh ý nghĩ tự khinh.
Cha biết con mình quen đời sống ăn xin bần tiện, không sao chuyển hóa tư tưởng nhanh chóng được, ông dùng kế mật, sai hai người tiều tụy không oai đức tìm rủ con ông vào nhà, mướn làm cái việc ti tiện là hốt phân. Người con thì rất bằng lòng nhận lấy việc làm nầy.
Cũng vậy, Phật biết chúng sanh thường sống trong vô minh, phiền não, nghèo nàn trí tuệ, không thể dạy thẳng cho chân lý Nhất Thừa. Không thể nói rằng tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành, cho nên phải phương tiện nói có hai thừa sai hai người không uy đức làm môi giới dẫn dụ chúng sanh cùng tử lần lần vào nhà Tri Kiến Phật, nhưng chàng cùng tử thì rất bằng lòng làm cái việc hốt phân ti tiện để đổi lấy giá tiền công nhật rất ít của chính cha mình.
Muốn gần con để lần hồi dạy bảo dẫn dụ, cha đổi quần áo sang trọng, mặc áo bả trỉn dơ, ví cho Phật ứng thân hạ liệt để gần gũi chúng sanh trong đời ngũ trược.
Gặp được con, cha khuyến khích làm việc, ví như Phật nhắc nhở tinh tấn tu hành. Hứa ban thưởng xứng đáng, muốn gì được nấy, ví như Phật hứa cho Niết bàn của Tiểu thừa để cho chúng sanh quen dần, lần hồi sử dụng châu báu trí tuệ trong cái gia tài đồ sộ Tri kiến Phật.
Cha có bệnh gọi con giao gia tài quản lý, như Phật đem Tri kiến Phật dạy bảo tu tập. Nhưng con không dám dùng, cũng như không có ý muốn dùng, đó là lòng hoài nghi của tất cả chúng sanh, đối với khả năng thành Phật của mình.
Đến giờ sắp chết cha hội thân tộc tuyên bố chàng cùng tử là con ruột và trao cho tất cả sản nghiệp, bấy lâu nay tập cho chàng thu xuất nay đã thông thuộc, ví như khi sắp nhập Niết bàn trong một hội Pháp Hoa Phật thọ ký: Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Kho tàng pháp bảo vô giá mà bấy lâu nay dạy dỗ, tập cho sử dụng, nay trao trọn cho tất cả chúng sanh, con Phật.
Con vui mừng, nghĩ thầm: kho tàng trân bảo vô giá nầy, ta không cầu mà có, tự nhiên mà được! Chân lý thì không phải vậy. Tri Kiến Phật, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm là cái tất cả chúng sanh vốn có.
(1) Tam tế: 1. Vô minh nghiệp tướng
2. Năng kiến tướng
3. Cảnh giới tướng
(2) Lục thô: 1. Trí tướng
2. Tương tục tướng
3. Chấp thủ tướng
4. Kế danh tự tướng
5. Khởi nghiệp tướng
6. Nghiệp hệ khổ tướng
*****
PHẨM 5
DƯỢC THẢO DỤ
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ông Ca Diếp và các đại đệ tử: Tốt lắm, Ca Diếp! Ông khéo nói được công đức chân thật của Như Lai. Đúng như lời các ông, Như Lai còn có vô lượng vô số công đức khác, dù các ông có nói suốt ức kiếp đi nữa cũng không hết được.
Ca Diếp, nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nói ra lời gì đều không sai không dối. Đối với tất cả pháp, Phật dùng sức trí tuệ và phương tiện mà diễn nói. Pháp Phật nói phát xuất từ “Nhất thiết chủng trí”. Như Lai biết chỗ quy thú của tất cả pháp; rõ biết tâm hành của chúng sinh và thường đem trí tuệ mà chỉ bày cho.
Ca Diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên đất đai sông núi sanh ra cây cối lùm rừng và các thứ cỏ thuốc, chủng loại, tên gọi, màu sắc đều khác. Một vầng mây đen, bủa giăng trùm khắp và mưa xuống khắp nơi nhuần thắm. Cây cối, lùm rừng, các thứ cỏ thuốc, cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, thứ nên thuốc, thứ không nên thuốc, tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ nước khác nhau. Một vầng mây tuôn mưa, tùy giống loại mà sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dù một cõi đất sanh, một trận mưa thắm mà cây cỏ đều sai khác.
Ca Diếp, nên biết! Như Lai hiện ra đời ví như vầng mây lớn hiện ra ấy. Giữa trời, A tu la….trong ba ngàn thế giới, Phật đường hoàng tuyên bố:
“Ta là đấng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Người chưa được độ thì làm cho được độ. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho ngộ. Người chưa an thì làm cho an. Người chưa có Niết bàn thì làm cho chứng. Đời nầy và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, là bậc trí đạo, bậc khai đạo, bậc thuyết đạo. Hàng trời, người, A tu la đều nên đến để nghe và học pháp”.
Bấy giờ có vô số chúng sanh đến với Phật để nghe pháp. Như Lai xét căn tánh chúng sanh thông minh hay ám độn, tinh tấn hay giải đãi, tùy cơ, vừa sức mà nói pháp, khiến cho các chủng loại đều được sự lợi lành. Hiện đời được an ổn, lần lần tiến lên đường đạo, đời sau được sanh vào quốc độ thánh thiện an vui.
Như Lai thuyết pháp chỉ có một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng viễn ly, tướng Niết bàn tịch diệt, quy về tướng không, rốt ráo đến bậc “Nhất thiết chủng trí”, vì Như Lai biết chủng tánh, thể tướng của chúng sanh nhớ gì, nghĩ gì, tu gì, nhớ thế nào, nghĩ thế nào, tu thế nào, Như Lai đều thấy biết đúng như thật, còn cây cối lùm rừng cỏ thuốc không thể biết tánh, thượng, hạ của nó.
Phật biết như vậy, rồi xem xét tâm ưa muốn của từng đối tượng mà dắt dẫn, cho nên không dạy liền cho chúng sanh về “Nhất thiết chủng trí”.
Ca Diếp! Sự nhận thức của các ông hi hữu. Các ông đã biết rõ Như Lai tùy cơ nghi nói pháp khó tin khó hiểu, nay mà các ông đã tin tốt và tiếp nhận tốt.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Ca Diếp! Ông nên biết
Ta dùng các nhân duyên
Và nói nhiều thí dụ
Để chỉ bày đạo Phật
Đó là phương tiện của ta
Các Đức Phật cũng thế
Nay ta vì các ông
Nói việc chân thật nầy
Quả chứng của Thanh văn
Chưa phải thật diệt độ
Đạo sở hành của các ông
Phải là Bồ tát đạo
Học tu tiến lên dần
Tất cả sẽ thành Phật
THÂM NGHĨA
Dược thảo dụ là lấy các loại cây cối và thảo mộc có tánh chất nên thuốc, ví cho ba hạng người có căn tánh bậc thượng, bậc trung và bậc hạ. Đó là Thanh Văn, Duyên giác và Bồ tát. Ngoài ra, còn loại cây lùm rừng, những thứ “không nên thuốc” gì hết, cũng được đề cập chung với dược thảo nầy, để nói sự có mặt, sự hưởng thụ nước của một trận mưa bình đẳng của một số giống loại cỏ cây, nhưng là cỏ cây vô dụng. Đó là thứ cỏ cây sanh trưởng thuộc vùng đất “bạc địa phàm phu”
Phật thuyết pháp bình đẳng. Thật lý mà nói chỉ có một Phật thừa. Trong những kinh điển thường được xem là Tiểu thừa vẫn có cái mầm Đại thừa, có tư tưởng tối thượng thừa trong đó. Tùy trí tuệ nhận thức của từng căn tánh, từng đối tượng mà thấy có hoặc không. Giống như, cùng nhìn một bầu trời cảnh vật ngày xuân, thấy quang cảnh đẹp hồng hay ảm đạm âm u là tùy cặp kính hồng hay đen mà mình mang trên mắt.
Để chứng minh cụ thể, ta cùng đọc một đoạn kinh A hàm thuộc hệ tư tưởng Tiểu thừa.
“Nầy các Tỳ kheo! Tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên cây đuốc trí tuệ của mình, đừng ỷ lại nương theo ai khác. Tự mình quy y với mình, quy y với tự tánh mình, đừng hướng ngoại, quy y với ai khác”.
Thế mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác từ lâu, đối với Đại thừa Diệu pháp không hiểu biết chút nào, tự xem như mình không được dự phần. Rõ ràng, do sự hấp thụ của từng loại cây cối, chủng loại cỏ thuốc mà giá trị trưởng dưỡng khác nhau, còn nước mưa từ một vầng mây tuôn xuống thì chỉ có một tánh đượm nhuần. Tất cả giáo pháp của Như Lai chỉ có một tướng là tướng Giác ngộ và Giải thoát.
Học giáo lý phẩm dược thảo dụ, người chủng tánh Đại thừa cảm nhận sâu sắc nỗi khó khăn của đức Phật trên bước đường hóa độ chúng sanh và hiểu rõ lý do: Vì sao thời gian trước, chính Phật đã từng giảng dạy có “ba thừa” mà nay thì Như Lai lúc nào cũng dường như sẵn sàng quở trách!
*****
PHẨM 6
THỌ KÝ
Bấy giờ Thế Tôn bảo đại chúng: Ma Ha Ca Diếp ở đời vị lai sẽ phụng thờ 300 muôn ức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen và nói vô lượng đại pháp của chư Phật. Thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang Minh đủ mười đức hiệu. Nước tên là Quang Đức. Kiếp tên Đại-trang-nghiêm. Phật thọ 12 tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp không có các thứ dơ xấu, không sạch. Đất đai bằng thẳng, lưu ly trong suốt, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây trang trí bên đường, hoa báu thơm đẹp tung rãi khắp nơi. Bồ tát và Thanh văn số đông vô lượng. Dầu có ma và dân ma, nhưng không có việc ma, họ luôn luôn hộ trì Phật pháp.
Nói xong, Phật thuyết một bài kệ lập lại ý trên.
Lúc bấy giờ ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp.v.v..thảy đều run sợ. Chấp tay chiêm ngưỡng Phật và cùng có chung một tâm niệm đại ý như sau: Thế Tôn, nếu thấu rõ lòng chúng con, xin ban cho chúng con lời thọ ký để được an lòng. Chúng con biết lỗi của Tiểu thừa, nhưng chưa tin khả năng của mình có thể được Phật tuệ. Chúng con ví như người đói gặp bữa tiệc vua, nhưng chưa dám ăn. Dù nghe Phật nói tất cả sẽ thành Phật, nhưng chưa được Phật thọ ký thì lòng chúng con vẫn còn lo ngại. Phật thọ ký rồi, lòng chúng con thỏa mãn, như kẻ đói được bảo ăn.
Biết tâm niệm của các đệ tử, Thế Tôn bèn bảo:
“Ông Tu Bồ Đề, ở đời vị lai sẽ phụng thờ 300 muôn ức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, tròn đủ đạo Bồ tát. Thân rốt sau thành Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, đầy đủ mười đức hiệu. Kiếp tên Hữu Bửu, nước tên Bửu Sanh, quốc độ bằng thẳng, đất lưu ly, cây báu trang nghiêm, hoa báu khắp đất. Không có các thứ nhiễm ô bất tịnh. Dân cõi nước đó chỗ ở đẹp đẽ, nguy nga, tráng lệ. Hàng đệ tử Thanh Văn đông không kể xiết. Chúng Bồ tát vô số ức na do tha. Đức Phật thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp. Phật thường trụ trong hư không thuyết pháp độ thoát vô lượng Bồ tátvà Thanh Văn.
Rồi đức Thế Tôn cũng nói bài kệ lập lại ý nghĩa trên.
Đức Thế Tôn dạy tiếp: Ông Ca Chiên Diên đời vị lai dùng các đồ cúng dường và phụng thờ 8.000 ức Phật. Sau khi chư Phật diệt độ, ông dựng tháp cao 1.000 do tuần, rộng 500 do tuần, toàn bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách, còn cúng các thứ hoa thơm, chuỗi ngọc, hương xoa, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan….làm cho tháp miếu huy hoàng tráng lệ. Sau đó, lại cúng dường 20 muôn ức Phật nữa. Bấy giờ đầy đủ đạo Bồ tát, ông sẽ được thành Phật hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai đủ mười đức hiệu. Quốc độ của Phật toàn thất bảo hợp thành. Lan can trang trí bằng vàng ròng, châu ngọc báu lạ, cõi nước của Phật Kim Quang Như Lai không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A tu la. Chỉ có Trời, người và vô lượng Thanh Văn, Bồ tát. Phật thọ mạng 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ thế 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng vậy.
Đức Thế Tôn tuyên lại ý nghĩa trên bằng một bài kệ:
Sau hết, Đức Phật thọ ký cho ông Đại Mục Kiền Liên sau nầy sẽ cúng dường 8.000 ức Phật. Sau các Phật diệt độ, dựng tháp miếu cao 1.000 do tuần, rộng 500 do tuần, cũng toàn bằng thất bảo. Trang trí hương hoa, chuỗi ngọc, vàng ròng, lọng nhiễu, tràng phan….để cúng dường trang nghiêm tháp miếu.
Sau đó, lại cúng dường 200 muôn ức Phật, rồi được thành Phật hiệu: Đa-ma-la-bạt-chiên-đàn-hương đủ mười đức hiệu. Kiếp tên Hi Mãn, nước tên Ý Lạc. Quốc độ bằng thẳng. Đất pha lê cây vàng, lá bạc, hoa trân châu, khắp nơi sạch sẽ, ai thấy cũng hoan hỉ. Trời người vô số, Thanh Văn, Bồ tát không thể đếm xiết. Phật thọ 24 tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế 40 tiểu kiếp, tượng pháp cũng vậy.
Để tuyên lại ý nghĩa trên, đức Thế Tôn nói một bài kệ:
…Các đệ tử của ta
Bậc oai đức đầy đủ
Số đó năm trăm người
Ta đều sẽ thọ ký
Ở nơi đời vị lai
Đều sẽ được thành Phật
Ta cùng với các ông
Đời trước kết nhân duyên
Ta nay đã thuật nói
Các ông khéo lóng nghe
THÂM NGHĨA
Thọ ký là một môn đặc biệt, chỉ có trong kinh giáo thuộc hệ tư tưởng tối thượng thừa. Khó mà định nghĩa gọn gàng giản đơn về hai chữ “thọ ký”.
- Rằng “thọ ký” tức là dự đoán. Không phải. Vì dự đoán có thể đúng hoặc cũng có thể sai.
- Rằng “thọ ký” giống như tiên tri. Không đúng. Vì tiên tri chỉ có nghĩa là biết việc sau nầy, mà cũng không lấy gì bảo đảm!
- Rằng “thọ ký” giống như một mệnh lệnh tối thượng “phán” truyền. Càng không thể chấp nhận, vì “thọ ký” không phải là sự đền ơn hay một ân sủng của đấng chúa tể nào hay một vị thần quyền thiêng liêng tối thượng.
Thọ ký là nói lên một sự thật, một chân lý tất yếu tất nhiên. Sự thật ấy sẽ được hiện thực trong tương lai và đã hiện thực trong ngược dòng quá khứ. Cho nên bộ môn “thọ ký” được xem là một thông lệ của ba đời chư Phật thường làm. Làm trong lúc sắp kết thúc cuộc hành trình giáo hóa chúng sanh và chỉ đến lúc chúng sanh có thể nhận biết khả năng thành Phật của mình, Phật mới đem sự thật nầy ra dạy bảo.
Thành Phật có nghĩa l2 đạt đến địa vị giác ngộ chân lý hoàn toàn và giải thoát vô minh trọn vẹn. Phật đã đạt đến, chúng sanh tu hành rồi cũng sẽ đạt đến, vì chúng sanh sẵn có Tri Kiến Phật rồi.
Ông Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp, Đại Mục Kiền Liên v.v..được thọ ký thành Phật sau nầy. Đó là đức Phật nói ra một sự thật. Chẳng những hàng Thanh Văn, Duyên Giác ở trong hải hội Pháp Hoa được thọ ký mà còn nhiều hạng người khác cũng sẽ được thọ ký dài dài…Đó là chỗ dụng nghĩa thầm kín, sâu xa của bộ môn thọ ký trong hệ giáo lý tối thượng thừa.
Là Phật thì Phật nào cũng đầy đủ ba đức: Pháp Thân, Báp Nhã và Giải Thoát. Nói một cách đơn giản dễ hiểu là Phật nào cũng có Bồ đề và Niết bàn. Cho nên quốc độ của Phật thì dứt khoát không có điều kiện ô nhiễm môi trường, cũng không có lý do sanh ra sự khổ đau hoặc xấu xí.
…”Hằng dụng giới hương đồ vinh thể
Thường trì định phục dĩ tư thân
Bồ đề diệu hoa biến trang nghiêm
Tùy sở trụ xứ thường an lạc…”
Lấy giới làm phấn để thoa thân
Dùng định làm áo mặc hằng ngày
Hái hoa trí tuệ làm vật trang điểm.
Vì vậy, người đó ở đâu thì chỗ đó trở nên an lạc.
Quốc độ của chư Phật thanh tịnh trang nghiêm đẹp đẽ, phát xuất từ chân lý:
“Tùy kỳ tâm tịnh, tắt Phật độ tịnh”.
Thật lý mà suy. Nếu toàn quốc độ cấu tạo bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san ho, hổ phách…thì các thứ ấy còn quý giá gì nữa mà ham! Đó là Như Lai vận dụng lối thuyết pháp “phổ vị thế giới tất đàn”, nói cho đẹp lòng vừa ý, êm tai để “dụ” những chúng sanh còn nặng lòng tham lam báu vật.
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyển, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán”
Có đức Phật nào quên chân lý ấy đâu. Dù là vàng bạc, lưu ly, pha lê…vẫn là “pháp hữu vi”. Mà “pháp hữu vi” thì như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, như chớp rốt cuộc chẳng có gì!
Vấn đề cúng dường, đọc cho đúng thì nên đọc là “cung dưỡng” có nghĩa là vun bồi cung cấp và bồi dưỡng cho tăng trưởng thêm lên. Để đem lại hiệu quả cứu cánh giải thoát giác ngộ, người đệ tử Phật có hai cách “cúng dường”:
Một, là cúng dường Phật tánh. Quay về với “bản lai diện mục” với tự tánh thanh tịnh bản nhiên vốn có của con người, hàng ngày sinh hoạt không rời Tri Kiến Phật. Đó là cách cúng dường Phật tánh.
Hai, là cúng dường Pháp tánh. Hành động trong vạn pháp. Xây dựng, trang trí, thẩm mỹ, nghệ thuật từ vạn pháp duyên sanh có ra. Là một Bồ tát hạnh, vì mục đích giải thoát giác ngộ, Bồ tát không né tránh, không từ nan, không sợ tiêm nhiễm vì giá trị quý giá của những vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san hô, hổ phách….ấy. Do vậy, dù sử dụng thất bảo xây tháp, nhưng thất bảo ấy trở thành “pháp tánh”, một thứ pháp mà tự tánh của nó vốn thanh tịnh bản nhiên. Người xây tháp và nguyên liệu xây tháp không có tính dính mắc gì nhau. Đó là việc làm biểu thị về nghị lực của Bồ tát là “tâm cảnh như như”. Cho nên việc xây tháp miếu cúng dường như thế là hành động thả một cầu phao mà vớt cả hai con thuyền. Dựa trên Pháp tánh mà tôi luyện Phật tánh của mình. Đứng vững ở Phật tánh mình mà bồi dưỡng đức thanh tịnh bản nhiên của Pháp tánh, vì Phật tánh và Pháp tánh không hai.
Phật mỗi vị có một đức hiệu riêng, vì khi tu nhơn hành Bồ tát đạo mỗi vị riêng có một tâm đắc, một sở trường. Điều đó cũng còn có nghĩa là pháp tu, pháp hành của các Bồ tát trong lúc tu nhơn không có một nguyên tắc chung nào gò bó. Ai tu pháp môn gì cũng được, miễn là đừng lạc vào tà đạo, mê tín dị đoan, hoang đường, ảo tưởng là tốt. Đối với nền giáo lý Phật thì phóng khoáng và tôn trọng dân chủ tuyệt đỉnh từ đầu, cho nên kinh điển Phật có câu: “Vô lượng pháp môn tu”.
Do tu nhơn sai khác cho nên thành quả cũng sai khác. Đến như việc thọ mạng dài ngắn, đệ tử ít nhiều mỗi mỗi đều khác biệt, nhưng tất cả chư Phật đều có một thành tựu chung, cùng đến cái đích cứu cánh là:
Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
*****
PHẨM 7
HÓA THÀNH DỤ
Phật bảo các thầy Tỳ kheo: Thuở quá khứ, vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp. Hồi ấy có đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Nước của Phật tên Hảo Thành. Kiếp tên Đại Tướng. Từ đức Phật đó diệt độ đến nay rất lâu xa. Ví như đất của cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi 1.000 cõi nước ở phương đông, chấm một điểm chừng như hạt bụi, lại đi qua 1.000 cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế, lần lượt chấm cho hết nước mực nói trên.
Nầy các Tỳ kheo! Những cõi nước của người đó qua, hoặc có chấm mực, hoặc không có chấm mực, đều đem nghiền nát ra làm bụi. Một hạt bụi kể là một kiếp. Từ đức Phật đó diệt độ đến nay lâu hơn số đó vô lượng nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức Tri Kiến Như Laixem việc lâu xa đó, dường như việc ở hiên nay.
Đức Đại Thông Trí Thắng thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp. Lúc ngồi đạo tràng, phá xong ma quân, sắp thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà pháp Phật chẳng hiên ra. Tiếp tục Ngài ngồi kiết già “thân tâm bất động” trải một tiểu kiếp, rồi mười tiểu kiếp mà pháp Phật vẫn chẳng hiện ra.
Thuở đó, các trời Đao Lợi, vì Phật trang trí một tòa sư tử dưới cội cây Bồ đề, Phật ngồi lên tòa thì chứng Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các chư thiên tiếp tục rải hoa cúng dường. Các Trời Tứ Thiên Vương v.v…cũng trổi nhạc đánh trống…mãn 50 tiểu kiếp đến lúc Phật nhập Niết bàn.
Nầy các Tỳ kheo! Đại Thông Trí Thắng Phật, trải quá trình “bất động” mười tiểu kiếp pháp Phật mới hiện ra.
Lúc Phật chưa xuất gia, có 16 người con trai. Người con cả tên là Trí Tích. Các người con đều có các thứ đồ chơi tốt đẹp và báu lạ, nghe cha chứng quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều bỏ đồ chơi báu của mình, đến chỗ Phật. Các bà mẹ khóc lóc theo đưa.
Ông nội là Chuyển Luân Thánh Vương cùng 100 vị đại thần và muôn ức nhân dân khác cùng nhau đến đạo tràng, gần gũi Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen.
Nghĩ đến sự an ổn lợi ích của Trời, người, 16 vị vương tử thỉnh cầu đức Thế Tôn chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh.
Phật bảo các tỳ kheo! Lúc Đại Thông Trí Thắng thành Phật, cõi nước của chư Phật trong mười phương đều chấn động sáu cách. Những chỗ tối tăm bừng sáng, các chúng sanh đều được thấy nhau, và đồng nói: “Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh”.
Do ánh sáng cùng khắp mười phương. Bấy giờ chư Thiên, trời Phạm ở phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc, Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, phương trên, phương dưới tìm đến chỗ Phật dâng các thứ hương hoa, trân bảo, kỷ nhạc, tràng phan, cung điện v.v…cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen và một lòng cầu xin đức Đại Thông Trí Thắng Phật chuyển pháp luân độ thoát cho hàng Trời, người.
Đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời của hàng chư Thiên và 16 vị vương tử.
Trước hết, Đại Thông Trí Thắng Phật vận dụng ba lần chuyển pháp Tứ đế với 12 hành:
“Đây là khổ. Đây là khổ tập. Đây là khổ diệt.Đây là đạo diệt khổ”.
Kế tiếp, Phật chuyển về 12 nhân duyên:
“Vô minh duyên hành. Hành duyên thức. Thức duyên danh sắc. Danh sắc duyên lục nhập. Lục nhập duyên xúc. Xúc duyên thọ. Thọ duyên ái. Ái duyên thủ. Thủ duyên hữu. Hữu duyên sanh. Sanh duyên lão, tử, ưu bi khổ não”.
“Vô minh diệt, hành diệt. Hành diệt, thức diệt. Thức diệt, danh sắc diệt. Danh sắc diệt, lục nhập diệt. Lục nhập diệt, xúc diệt. Xúc diệt, thọ diệt. Thọ diệt, ái diệt. Ái diệt, thủ diệt. Thủ diệt, hữu diệt. Hữu diệt, sanh diệt. Sanh diệt, lão, tử, ưu bi khổ não diệt”.
Phật nói pháp đó có 600 vạn ức na do tha người, không thọ tất cả pháp, mà phiền não hết tâm được giải thoát.
Lúc Phật nói lần thứ hai, lần thứ ba, có muôn ức hằng hà sa chúng sanh, cũng vì không thọ tất cả pháp mà vô minh phiền não hết, tâm được giải thoát. Từ đấy, các chúng Thanh Văn ngày càng nhiều vô lượng vô số không thể tính kể hết.
Bấy giờ 16 vị vương tử đều là đồng tử, xin xuất gia làm Sa di. Các Sa di nầy đều thông minh, bén nhạy. Trí tuệ sáng suốt, từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Phật, siêng tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đồng bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Chúng Thanh Văn vô lượng đây, việc làm đã thành tựu, Thế Tôn nên vì chúng con nói pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng con nghe đồng tu học. Chí nguyện của chúng con thường mong được Tri Kiến Phật. Đó là chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm của chúng con, mong Phật biết cho.
Lúc bấy giờ, tám muôn ức người trong số tùy tùng Chuyển Luân Thánh Vương, thấy 16 vị vương tử xuất gia. Vua thuận cho.
Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu của 16 vị Sa di, qua hai muôn kiếp sau, ở trong hàng tứ chúng, nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
Phật nói kinh đó suốt tám ngàn kiếp không gián đoạn. Nói xong, Phật vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp.
Mười sáu vị Sa di bèn thay Phật lên pháp tòa rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng tám muôn bốn ngàn kiếp. Mỗi vị độ hằng sa chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Qua tám muôn kiếp, đức Phật Đại Thông xuất định, bảo rằng: “16 Sa di thật là ít có. Vì các căn thông lợi, trí tuệ sắc bén, các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát nếu biết gần gũi và kính tin thọ trì tu học Pháp của các vị ấy sẽ được đạo Vô thượng”.
Đức Phật Thích Ca bảo các Tỳ kheo: Hằng sa chúng sanh đã được 16 vị Sa di hóa độ, đời đời đều sanh ra cùng chung nghe pháp với các vị ấy và 16 vị ấy nay đã thành Phật với danh hiệu như:
Phật A Súc và Phật Tu Di Đảnh thành Phật ở phương Đông.
Phật Sư Tử Âm và Phật Sư Tử Tướng thành Phật ở phương Đông Nam.
Phật Hư Không Trụ và Phật Thường Diệt thành Phật ở phương Nam.
Phật Đế Tướng và Phật Phạm Tướng thành Phật ở phương Tây Nam.
Phật A Di Đà và Phật Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ não thành Phật ở phương Tây.
Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông và Phật Tu Di Tướng thành Phật ở phương Tây Bắc.
Phật Vân Tự Tại và Phật Vân Tự Tại Vương thành Phật ở phương Bắc.
Phật Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy thành Phật ở phương Đông Bắc.
Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật ở cõi Ta Bà.
Đức Phật Thích Ca nói tiếp: Các Tỳ kheo, lúc chúng ta làm Sa di, mỗi người giáo hóa vô lượng hằng sa chúng sanh, vì đạo vô thượng mà theo nghe pháp. Những chúng sanh đó, đến nay có người đã ở vào địa vị Thanh Văn, ta thường lấy pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà giáo hóa. Hằng sa chúng sanh được giáo hóa thuở đó, nay là Tỳ kheo các ông đó. Sau khi ta diệt độ, những Thanh Văn đời vị lai cũng là những chúng sanh đã kết duyên thuở ấy. Tuy vậy, cũng có hàng đệ tử không nghe kinh nầy, không hay không biết những hạnh của Bồ tát, tưởng được một ít công đức tu tập là đã diệt độ chứng đắc Niết bàn.
Nên biết, chỉ do Phật thừa mới được diệt độ, không có thừa nào khác. Nếu có khác thì đó chỉ là phương tiện của Như Lai vận dụng mà thôi.
Đến đây đức Phật Thích Ca đưa ra một tỷ dụ:
“Có một chỗ chứa nhiều của báu. Muốn đến nơi đó phải trải qua đường dài những 500 do tuần, nhiều nguy hiểm hoang vắng ghê sợ. Một nhóm người muốn đến nơi ấy để lấy của báu. Có một người thông minh nhiều hiểu biết dẫn đường. Dù vậy, vì đường dài, nhóm người ấy mệt nhọc, sợ sệt tỏ ý chán nản muốn lui về. Thương xót bọn người ấy sao lại có ý bỏ của báu muốn lui về. Vị dẫn đường bèn ở nơi hai phần đường, dùng phép lạ hóa ra một tòa thành và bảo nhóm người kia vào ở sẽ được an ổn sung sướng. Rồi muốn đi nữa để đến chỗ châu báu thì cũng tiện.
Nhóm người kia nghe theo, vào thành ở được an ổn và rất bằng lòng.
Khi biết nhóm người kia hết mỏi mệt, vị dẫn đường mới nói: “Thành ấy là do ta hóa ra để chúng ngươi tạm nghỉ mệt, chớ chưa phải là chỗ các vị cần đi đến. Hãy cố gắng lên, chỗ chứa châu báu gần đây”.
Cũng vậy, biết chúng sanh sợ con đường dài thành Phật, phải tinh tấn và cần khổ lắm mới đi đến chỗ cuối cùng, Phật như vị dẫn đường, phương tiện nói có hai thứ Niết bàn. Một cho Thanh Văn. Một cho Duyên Giác. Chúng sanh lại tưởng hai nơi đó là cứu cánh, Phật phải đưa sự thật ra mà dạy rõ:
Rằng sự tu hành đến quả vị Thanh Văn, Duyên Giác là chưa xong, cần phải tiến thêm lên nữa. Tuy vậy đừng sợ. Từ đây đến chỗ chứa châu báu gần và rất dễ đi.
THÂM NGHĨA
Đức Phật Thích Ca kể lại sự tích về quá trình hành đạo, chứng quả của đức Đại Thông Trí Thắng Phật cách đây bất khả thuyết, bất khả thuyết vô lượng a tăng kỳ kiếp. Thế mà, với Tri Kiến Phật sự kiện đó như là việc hiện tiền, Như Lai thấy biết không cần sự hồi ức khó khăn. Nói sự việc nầy, nhằm dạy cho người đệ tử Phật rằng: Tri Kiến Như Lai là thứ thứ tri kiến bản thể. Hiện tượng duyên khởi hình thành lâu hay mau, sự kiện diễn biến sanh ra lớn hay nhỏ đều sanh khởi từ bản thể, hiện hữu trong bản thể “bất biến tùy duyên ấy”. Vì vậy, chuyên xa xưa hun hút ấy, với Tri Kiến Phật y như đang có hiện giờ.
Đã gọi là Phật hay thành Phật thì người đó phải là người đạt đến Giải Thoát, Giác Ngộ. Nói cách khác là người phải thực chứng quả vị Vô thượng Bồ đề và Vô thưnợg Niết bàn.
Trên đưnờg tu nhơn thành Phật, Định và Tuệ, ví như hai cánh của một con chim. Khi chim bay, hai cánh vận chuyển nhịp nhàng đồng bộ thì chim mới bay đến đích. Xệ đi một cánh thì chim chẳng bay được. Đức Phật Thích Ca cho biết Đức Phật Đại Thông Trí Thắng chuyên tâm Thiền Định trọn một tiểu kiếp hàng phục, phá ma quân rồi mà pháp Phật không hiện ra (Pháp Phật không hiện ra, có nghĩa là Trí tuệ chưa đầy đủ, Bồ đề chưa viên mãn).
Sau đó, tiếp tục thiền định thêm mười tiểu kiếp mà cũng chưa thành Phật. Cuối tiểu kiếp thứ 10 với sự hoạt động có tánh cải tạo xây dựng của chư Thiên, bấy giờ Đại Thông Trí Thắng ngồi lên tòa sư tử mới chứng thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiền định nhằm dứt bặt tâm thức, kiểu như chết lịm không tốt. Trong Phật pháp gọi đó là “khô định”. Thứ “định” không có “tuệ”. Nó chỉ có công dụng phá ma quân (tức là ngăn chặn hết vọng tưởng). Muốn thành Phật phải chuyển hóa các tâm sở, cải tạo tánh xấu, xây dựng đức tốt, ngăn dứt việc ác, phát triển hạnh lành. Khi tột đến đỉnh cao của Trí Tuệ lúc bấy giờ gọi là thành Phật.
Thành Phật là cái đích đến của một con người tu tập mong cầu. Nhưng vai trò của một vị Phật mà dừng ở đây thì chưa trọn vẹn, dù pháp Phật hiện ra. Bởi vì thành quả đạt được đó chỉ mới hoàn thành bên mặt “Tự giác, tự lợi”. Còn cần có sức cảm hóa, giáo dục và truyền bá cái chủ nghĩa, cái đạo lý giải thoát, giác ngộ đến mọi tầng lớp con người để hoàn thành nhiệm vụ “Giác tha, tha lợi” của một vị Phật.
Điều kiện và hoàn cảnh của Phật Đại Thông Trí Thắng thì trước cảm hóa người thân, và dần dần cảm hóa người thân của người thân. Làm cái việc cảm hóa, giáo dục và truyền bá chân lý, nói cách khác là truyền bá chánh pháp, cho đến hết cuộc đời, ngày mà người đời hiểu là Như Lai Diệt Độ.
Do vậy, là một đấng Thế Tôn thì đầy đủ hai nhiệm vụ: Tự Giác, Giác Tha cho nên Phật nào cũng được tôn xưng là đấng: Giác Hạnh Viên Mãn.
Thành Phật là ngày trở về “thể nhập bản thể chân như thanh tịnh” ấy cũng tức là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của con người. Do vậy, Đại Thông Trí Thắng thành Phật, cõi nước của chư Phật, thế giới chư Thiên, trong mười phương đều sáng rỡ và rung động. Chúng sanh trong chín cõi đều được thấy rõ nhau. Ý thú đoạn kinh nầy nhằm nhắc lại một lần nữa cái chân lý: Tất cả là một và một là tất cả.
…”Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên…”
Khi mê thì sáu nẻo luân hồi cách phân ranh giới mịt mờ. Lúc giác thì quốc độ mười phương không còn có tướng hai.
Ở phẩm Tựa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ vô lượng kiếp xa xưa thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, trước cũng nói pháp “Tứ đế”, kế nói “Thập nhị nhân duyên” hóa độ cho hàng Tiểu thừa, sau rốt nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, độ cho hàng Đại thừa Bồ tát thời gian 60 tiểu kiếp, rồi sau đó Phật tuyên bố sẽ nhập Niết bàn.
Ở phẩm nầy, cũng chuyện xa xưa, bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp Đại Thông Trí Thắng Như Lai sau khi chấp nhận lời thỉnh cầu của 16 vị Sa di và hàng trời, người cũng vận dụng “tam chuyển pháp luân”. Qua 12 cách gồm: 4 cách “thị chuyển”; 4 cách “khuyến chuyển” và 4 cách “chứng chuyển”.
Sau đó, chỉ dạy lối quán chiếu và thực hành pháp “Thập nhị nhân duyên” để diệt trừ sanh tử ưu bi khổ não. Sau hai muôn kiếp cũng nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói xong, Phật vào tịnh thất nhập thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp.
Phật Thích Ca hiện nay cũng trước nói “tam thừa”, sau nói “nhất thừa” để đưa chúng sanh đến địa vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trước giờ phút Như Lai nhập Niết bàn, trí tuệ và phương tiện của Lai vận dụng thành một quy tắc. Quy tắc đó hữu hiệu trong việc giáo hóa chúng sanh.
Các vị Sa di là những người truyền đăng tục diệm hoằng dương chánh pháp, gieo rắc vào lòng người đạo lý Giải Thoát Giác Ngộ cho nên ai nghe, học hành theo đều đi đến Phật quả được.
Kinh thường nói Phật nào cũng có cha mẹ, vợ con và thường xuất thân từ gia đình vọng tộc có thể thỏa mãn mọi hưởng thụ trên đời. Vậy mà các vị không ham hưởng thụ. Để rồi từ đó xả tục xuất gia, trở thành bậc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bởi vì theo giáo lý truyền thống của đạo Phật, chỉ có hưởng thụ được thành quả “viễn ly” mới là người thật hưởng thụ cái “chân hạnh phúc”.
Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Sa di thứ 16, con út của Phật Đại Thông Trí Thắng. Các Tỳ kheo và cư sĩ nam nữ ở hội Pháp Hoa hiện tại là những người từng nghe pháp của 16 vị Sa di. Đọc ý thú lời kinh đó, mọi Phật tử chúng ta đừng vội khấn nguyện van xin “mau thành Phật” nhé! mà nên nhớ câu:
…”Hành tàng hư thật, tự gia tri
Họa phúc nhơn do cánh vấn thùy
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”…
Và
“Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị
Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”.
Có nghĩa là:
Việc làm của mình đúng, sai mình biết hết rồi. Họa đến hay phúc đến không cần hỏi thầy bói, thầy tướng mà chi. Làm thiện được quả báo thiện, làm ác bị quả báo ác, chân lý là như vậy. Có điều quả báo đến sớm hoặc đến chậm mà thôi.
Còn muốn biết đời trước mình là người thế nào thì xem cuộc sống của bản thân, của gia đình trong hiện tại. Muốn biết sẽ vui hay khổ của thân sau thì trông vào tánh nết đức độ, cách ăn ở của mình đối với mọi người trong hiện tại.
Tóm lại, sự tu hành cầu thành Phật cũng như sự làm lụng để được nhà giàu. Làm nhiều, siêng năng thì mau giàu; làm ít, lâu giàu; lười biếng nghèo suốt đời. Ước ao không được gì. Khấn nguyện van xin cũng không được gì.
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là kinh tối thượng thừa, là thứ chân lý cứu cánh. Phật nói kinh nầy rồi là đã làm xong nhiệm vụ truyền đạt chánh pháp, trao trọn gia bảo của Như Lai. Chúng sanh nghe, học, hành theo kinh nầy quyết định thành tựu quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì vậy Phật xa xưa cũng như Phật Thích Ca hiện tại, nói kinh Pháp Hoa xong là tuyên bố sẽ nhập Niết bàn mà vào thất an trụ thiền định tám muôn bốn ngàn kiếp, thì cũng không nói thêm gì nữa được, y như đã nhập Niết bàn rồi vậy.
*****
PHẨM 8
NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ
Ông Phú Lâu Na sau khi nghe Phật nói về những phương tiện tùy cơ thuyết pháp….lại nghe Phật thọ ký cho các vị đệ tử lớn, lại nghe việc nhân duyên đời trước….và sức tự tại thần thông của chư Phật trong lòng hớn hở bèn quỳ gối đảnh lễ Phật và bạch rằng:
“Như Lai Thế Tôn thật là hi hữu, làm việc khó làm, thuận theo tâm tánh của vô lượng chúng sanh mà thuyết pháp cứu vớt. Chúng con không thể dùng lời nói tuyên bày cho hết công đức của Thế Tôn. Nhưng xin Thế Tôn biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con”.
Phật bèn nhắc công phu tu hành của ông Phú Lâu Na ở các tiền kiếp: rằng ở 90 ức đức Phật thuở quá khứ, Phú Lâu Na từng hộ trì, phụ trợ tuyên bày chánh pháp của Phật. Ông là người bậc nhất trong số người thuyết pháp thuở đó. Về nghĩa “không” của các pháp ông thông suốt tận tường, đầy đủ “bốn trí vô ngại”, thường hay suy gẫm sâu xa, nói pháp thanh tịnh không chỗ nghi lầm. Tuy ông đầy đủ việc làm của Bồ tát, mà người thời bấy giờ đều hiểu ông là Thanh Văn thật. Ông dùng phương tiện qua hình thức Thanh Văn mà làm lợi ích vô số chúng sanh và giáo hóa vô số người khởi lòng tin vững chắc nơi đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Các Tỳ kheo, ở vào thời bảy đức Phật quá khứ, Phú Lâu Na cũng là bậc nhất trong hàng người nói pháp, trong tương lai ông cũng là người bậc nhất và hộ trì truyền bá chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật. Vì muốn xây dựng cõi Phật thanh tịnh mà Phú Lâu Na thường tinh tiến giáo hóa chúng sanh lần lần đầy đủ đạo Bồ tát. Nhờ đó mà qua vô lượng kiếp sau, Phú Lâu Na sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Minh, lấy hằng sa tam thiên, đại thiên thế giới làm thành một cõi Phật, lấy bảy báu làm đất. Cõi nước bằng phẳng như mặt bàn tay, không núi đồi, khe rãnh, gò nỗng, ghồ ghề. Đài thất bảo dẫy đầy, cung điện của chư Thiên gần với hư không, Trời, người giao tiếp nhau và đều thấy được nhau, không ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh), cũng không có người nữ.
Chúng sanh cõi ấy thần thông tự tại, chí nguyện bền chắc, tinh tấn và trí tuệ. Nhân dân nước ấy thường sử dụng hai cách ăn: Một là “thiền duyệt”. Hai là “pháp hỉ”.
Bồ tát cõi đó đông vô số, Thanh Văn cũng vậy. Nước Phật tên là Thiện Tịnh. Kiếp tên Bửu Minh.
Để lập lại nghĩa trên, đức Phật nói một bài kệ….
Bấy giờ 1.200 vị La Hán, những vị tâm được tự tại nghĩ rằng: Nếu Phật đều thọ ký cho mình như đã thọ ký cho các vị đệ tử lớn thì sung sướng biết bao. Đức Phật biết tâm niệm đó, bèn lần lượt thọ ký cho 500 vị A La Hớn. Trước hết là Tỳ kheo Kiều Trần Như và tất cả đều sẽ thành Phật đồng một hiệu là Phổ Minh.
Được thọ ký xong, 500 A La Hớn vui mừng lễ Phật thưa:
Bạch Thế Tôn! Từ trước tới nay chúng con cứ tưởng là mình được diệt độ rồi. Nay mới biết chúng con vô trí. Vì sao ? Vì đáng được trí tuệ của Như Lai mà cứ bằng lòng với trí nhỏ của mình cho là đủ. Rồi các vị đồng tâm, trình lên Phật một thí dụ:
Trong kho tàng Phật báu, chúng con mới được một phần mà tự cho là đủ. Chẳng khác một người nghèo đến chơi nhà bạn thân giàu lớn. Tiệc rượu xong, anh nghèo xay vùi nằm ngủ. Bạn giàu vì có việc đi xa gấp, bèn lấy một viên ngọc vô giá buộc vào vạt áo của bạn say để tặng. Hết say anh nghèo ra đi, không hay trong người có ngọc. Đến một nước khác cầu y cầu thực làm ăn vất vả, mỗi khi được một ít của cải tự cho là đủ, không dám mong một tình cảnh tốt đẹp hơn. Về sau anh bạn giàu gặp trở lại anh bạn nghèo, thấy bạn khốn khổ quá mới trách: Sao không dùng viên ngọc trong vạt áo để kinh doanh, tạo cho mình một cuộc sống giàu sang. Chừng ấy anh nghèo mới hay là mình giàu, liền dùng vốn ấy mà kinh doanh và trở nên giàu có.
Các vị A La Hớn kết luận: chúng con cũng như vậy, từ lâu xưa, Thế Tôn thường giáo hóa cho. Vậy là Thế Tôn đã gieo trong lòng chúng con hạt giống Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế mà chúng con vô trí không hay không biết, được chút phần Niết bàn cho là đã đủ rồi, không cần gì nữa. Nay Phật giác ngộ cho chúng con, dạy cho biết phải được Phật tuệ Vô thượng mới thật là Diệt độ.
THÂM NGHĨA
Phật thọ ký cho 500 đệ tử Thanh Văn, đọc tụng phẩm kinh nầy cần quan tâm về hiện tượng Phú Lâu Na, Phú Lâu Na là một trong mười đệ tử Phật được tôn vinh vào hàng “đệ nhất” theo sở trường của mỗi vị.
Phú Lâu Na được Phật khen thuyết pháp “đệ nhất” trong hàng đệ tử Thanh Văn. Việc đó, có nguyên nhân chánh đáng, không phải chuyện ngẫu nhiên. Bởi vì thời quá khứ, ông Phú Lâu Na cũng từng cộng sự trợ tuyên chánh pháp với 90 ức đức Phật, thời Phật nào cũng được ngợi khen như vậy. Giờ đây đức Phật Thích Ca cho ông ở tương lai ông cũng là người “thuyết pháp đệ nhất” giúp chư Phật giáo hóa chúng sanh, để rồi sau đó ông thành Phật với hiệu Phổ Minh, có nghĩa là ông gieo rắc ánh sáng trí tuệ khắp đến mọi người.
Phật nói lại sự kiện nầy, cũng như thọ ký cho ông Phú Lâu Na sắp tới, dạy cho Phật tử hậu lai bài pháp sâu xa về giáo lý Nhân Quả. Muốn có quả phải gieo nhân và chăm nom vun bồi liên tục cái nhân ấy. Thuyết pháp giỏi là chính mình đã gieo sâu hạt giống đa văn Phật pháp. Giáo hóa chúng sanh là truyền đạt cho mọi người ánh sánh trí tuệ giải thoát giác ngộ. Vì vậy ông Phú Lâu Na được Phật thọ ký thành Phật hiệu Phổ Minh. Từ nhận xét đó, ta thấy rõ Nhân quả không sai và Nhân quả không đời nào mất.
Sự nghiệp thuyết pháp độ sanh trong quá khứ của ông Phú Lâu Na đáng được ghi vào “bảng công đức vàng son oanh liệt”, Phật sự hiện tại của ông là một trong những người được Phật khen là “đệ nhất”. Thế mà ông chưa thành Phật cũng như ông tha thiết mong cầu thành Phật ở kiếp nầy. Điều đó thể hiện Đại thừa chủng tánh ở trong ông, cho nên Phật mới gọi ông là “Thanh Văn ngoài, bên trong là Bồ tát” (Nội bí Bồ tát, ngoại hiện Thanh Văn tướng), Vì vậy mà đối với ông thành Phật sớm hay muộn không phải là việc cần để tâm mong ước.
Giới hương làm phấn thoa thân
Choàng manh áo định tư sanh hình hài
Bồ Đề hoa hái trang cài
Niết bàn tại chỗ ta ngồi thưởng trăng…
Việc thọ ký chúng sanh thành Phật là một khía cạnh trong hoài bảo của Như Lai xuất hiện ở đời. Nhưng không thể thọ ký xô bồ, ồ ạt. Dù rằng quả Phật là bình đẳng, mọi người đều có khả năng đạt đến. Song quá trình hoạt động trong cuộc sống, động lực phát tâm chí nguyện tu hành của mỗi người đều khác biệt. Như Lai thọ ký từng đợt có trước có sau đều có ý nghĩa. Tất cả mọi người đều bình đẳng, mọi người đều có quyền thụ hưởng thành quả do ý chí, nghị lực, khả năng tu tập của mình. Trước tiên, ông Xá Lợi Phất, kế tiếp nhóm ông Tu Bồ Đề. Đến đây ông Phú Lâu Na và 500 đệ tử lớn. Những vị nầy nhất trí với nhau, xin Phật được trình bày cái thí dụ: “Hạt ngọc trong vạt áo” để nói lên nỗi lòng hối hận vì sự sai trái của mình khi chưa có điều kiện tu học Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
Cái thí dụ “Hạt ngọc trong vạt áo” còn nói lên nỗi lòng xúc động sâu xa: Giờ đây mới biết mình là con Phật. Từ lâu với ý chí thấp hèn và tự mãn, bằng lòng với quả vị Nhị thừa. Lại ngỡ rằng mình đã tuyệt phần, không có khả năng vói tới quả Phật. Quả là “chàng cùng tử” đáng thương. Ôi! Một bạn hữu vô cùng cao đẹp đáng kính biết bao! Bạn đã cho hạt ngọc vô giá buộc vào vạt áo. Vậy mà bao tháng năm khổ cực vất vả để đổi lấy cái ăn, cái mặc tầm thường mà đã bằng lòng mãn nguyện.
Giờ đây không còn là cùng tử ấy mà là người cự phú nhất đời.
Từ lâu không biết mình có hạt ngọc vô giá bởi khi người bạn tốt tặng cho là lúc bị hôn mê cơn say chưa tỉnh.
“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”!
Phật là người bạn tốt vô vàn khả kính, còn “cùng tử” khốn khổ kia là những Phật tử chúng ta đang hôn mê trong đêm trường cùng đồng sàng mà quá nhiều dị mộng.
*****
PHẨM 9
THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
Lúc bấy giờ A Nan và La hầu La nghĩ thầm: “Nếu mỗi chúng ta đều được thọ ký thì sung sướng biết bao”. Hai vị liền đến trước Phật làm lễ, bạch rằnt: “Chúng con nghĩ cũng có phần được thọ ký, vì bao giờ cũng quy hướng về Như Lai. Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời, người và A-tu-la trong thế gian. A Nan là người hầu và hộ trì tạng pháp, còn La Hầu La là con của Phật, nếu hai chúng con được thọ ký thì nguyện của chúng con sẽ mãn mà chỗ trông mong của chúng con cũng được đầy đủ”.
Hai ngàn đệ tử Thanh Văn, bậc hữu học và vô học cũng đứng dậy lễ Phật, chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Thế Tôn, tỏ ý cùng một sở niệm với A Nan và La Hầu La.
Phật bảo A Nan: “Đời sau, ngươi sẽ được làm Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai…Ngươi sẽ cúng dường 62 ức Phật, hộ trì tạng pháp, rồi sau được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác giáo hóa 20 ngàn muôn ức hằng hà sa Bồ tát…khiến những Bồ tát ấy thành tựu đạo Bồ đề.
Nước của Phật Sơn Hải Huệ tên là Thường Lập Thắng Phan, thanh tịnh đất bằng lưu ly. Kiếp của Phật tên Diệu Âm Biến Mãn, thọ mạng của Phật vô lượng và mười phương Như Lai đồng ca ngợi công đức của Phật.
Nói xong, Thế Tôn đọc một bài kệ lập lại nghĩa trên.
Lúc bấy giờ, 8.000 Bồ tát mới phát tâm, đều nghĩ: “Chúng ta chưa nghe các vị Bồ tát lớn được thọ ký như thế, cớ sao mà các Thanh Văn lại được như vậy”.
Đức Phật biết tâm niệm ấy, bèn bảo rằng: “Nầy các thiện nam tử, ấy vì ở nơi Phật Không Vương, ta và A Nan đã đồng thời phát tâm cầu sự giác ngộ vô thượng. A Nan thường ưa học rộng, còn ta thì siêng cần tinh tấn, cho nên ta đã được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, còn A Nan thì theo bản nguyện, hộ trì pháp ta và trong tương lai, tiếp tục hộ trì pháp tạng của Chư Phật, để giáo hóa thành tựu chư Bồ tát. Bổn nguyện của ông như thế nên đặng thọ ký dường ấy”.
Lòng rất vui mừng, A Nan tức thời nhớ lại tạng pháp của vô lượng ngàn muôn ức Phật thuở quá khứ, luôn cả lời nguyện của mình.
Bấy giờ Phật bảo La Hầu La: “Đời sau ngươi sẽ đặng làm Phật hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai. Ngươi sẽ cúng dường chư Phật Như Lai đông như vi trần trong mười thế giới và thường vì các đức Phật mà làm trưởng tử như hiện nay”.
Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó, cõi nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ tử, chánh pháp và tượng pháp cũng đồng như Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ngươi sẽ làm trưởng tử cho Phật Sơn Hải Huệ, rồi về sau sẽ được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng một bài kệ….
Thấy các bậc hữu học, vô học 2.000 người ý căn nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, một lòng nhìn Phật, Phật bèn nói với A Nan: “Tất cả những người ấy sẽ cúng dường chư Phật Như Lai đông như vi trần trong 50 thế giới, cung kính hộ trì pháp tạng, rốt sau đồng thời, ở các nước trong mười phương, mỗi mỗi đều được thành Phật, đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, số đệ tử Thanh Văn, Bồ tát và thời gian chánh pháp, tượng pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, các hàng hữu học, vô học nghe đức Phật thọ ký, vui mùng hớn hở như được rưới cam lồ.
THÂM NGHĨA
Thọ ký cho tất cả những người hữu học và vô học đều được thành Phật là một hình thức khác, nhằm nói lên cái chân lý: “Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Chân lý đó được Bồ tát Thường Bất Khinh pháp hiện từ vô lượng đời kiếp trước được Phật nhắc lại ở phẩm hai mươi sau. Bồ tát Thường Bất Khinh xa xưa nhờ quán triệt chân lý này mà thành Phật. Phật là hiện thân của chân lý, nói rằng Phật thọ ký, kỳ thật là nói ra cái chân lý hiển nhiên ấy, vậy thôi.
Hữu học, vô học là ai ?
Vô học là những người đã không bị ràng buộc vướng mắc bởi những nghiệp nhơn phiền não trong ba cõi, không còn khiếp sợ và đau khổ bởi vô thường, lão, bệnh trong vòng sanh tử luân hồi, ưu bi khổ não.Họ “xuất ly tam giới” được quả A La Hớn.
Hữu học là những người còn chịu sự chi phối của hạt giống hữu lậu của nghiệp nhơn nhiễm ô của ba cõi. Đó là những người Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm quả.
Hàng hữu học và vô học có đến 2.000 người, Phật thọ ký cho tất cả đều được thành Phật và đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai đủ mười đức hiệu. Về bình đẳng môn thì như thế. Ai cũng có khả năng thành Phật, có quyền hưởng thụ thành quả giải thoát giác ngộ do công lao tu tập rèn luyện của mình. Nhưng về sai biệt môn thì rõ ràng nhân nào quả nấy. Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Không có tâm trạng “ngồi chờ sung rơi!…” trong toàn bộ giáo điển của Phật.
Hai nghìn Thanh Văn hữu học, vô học được thọ ký thành Phật sau nầy có điều kiện. Phải cúng dường các Như Lai nhiều như số vi trần trong 50 thế giới nghiền ra. Và phải thọ trì pháp tạng, nghĩa là phải lãnh thọ, hành trì kho tàng chánh pháp. Xã hội quan của Phật giáo cách đây những mấy ngàn năm. Vậy mà tư tưởng Phật giáo và đạo đức của xã hội “không chấp nhận chế độ ngồi mát ăn bát vàng”. Phải ra sức làm việc mới có ngày quang vinh, gia tư mới sung mãn chứ!
Ở đây có hai vấn đề cần được đặt ra:
Một, là số chư Phật nhiều như số vi trần của 50 thế giới nghiền ra. Tìm đâu cho ra đủ số Phật như thế để cúng dường ? Ngõ hầu được thành Phật ?
Hai, là vấn đề tuổi thọ của Như Lai. Lấy tuổi thọ của Như Lai nào làm tiêu chuẩn để có thể lượng định thời gian, để hy vọng và ước mơ ngày công viên quả mãn thành Phật của mình? Chắc chắn là bế tắc. Dù thầy toán hay bậc thầy của thầy toán cũng không giải đáp được.
Vấn đề đó phải được hiểu: Như Lai là Như Lai Viên Giác Diệu Tâmlà cái Tâm Như Lai vốn có của tất cả chúng sanh.
Tâm Như Lai nầy có hai mặt: Thể và Dụng. Thể của nó thì bất biến. Dụng của nó lại tùy duyên. Thể ví như nước. Dụng như bọt bóng sóng mòi…Sóng mòi bọt bóng nghìn sai muôn khác, những điều kiện (duyên) khuấy động hết thì, tất cả là một thể nước lặng trong. Chúng sanh mê muội, thì tùy nghiệp duyên trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi, nhưng nếu giác ngộ thì là Như Lai Phật. Đó là lúc “trở về” cái bản vị “bất biến” của mình.
Do vậy, cúng dường chư Phật nhiều đời, cúng dường chư Phật thật đông có nghĩa là ta phải vun bồi “cung cấp, dưỡng nuôi” cái giác tánh tràn đầy mầu nhiệm, tùy duyên bất biến của ta một cách thường xuyên liên tục ở mọi chốn nơi, mọi hoàn cảnh trong đời sống của ta. Khởi một niệm lành là cúng dường một Phật. Thể hiện một hành động của thân, của miệng, của ý có tánh cách lợi lạc chúng sanh, vị tha vô ngã, có chất liệu giải thoát giác ngộ là cúng dường Phật. Cúng dưnờg như thế là ở đâu cũng có Phật để cho ta cúng dường. Và muốn cúng dường bao nhiêu cũng có đủ số Phật để chứng minh lòng thành kính của ta. Đó là điều kiện để thành Phật đó. Bậc hữu học, vô học trong nhóm 2.000 người làm việc ấy, tất cả Phật tử chúng ta cũng có thể thực hiện sự cúng dường như vậy và kết quả đảm bảo như nhau. Chớ cúng Phật “ngoại” cảnh mà mong đem lại giác ngộ giải thoát “nội” tâm thì làm sao có được việc đó ? Vả lại, theo giáo lý nhà Phật, không có một ông Phật nào ban cho bất cứ ai về cái quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải học và hành theo nhà bác học, mới có khả năng và có ngày trở thành nhà bác học. Lạy, cung cấp bạc vàng, vật dụng cho nhà bác học để cầu xin được bác học, điều đó không phải việc của người trí làm.
Học và hành là hai yếu tố không thể thiếu của người tu Phật. Học ví như đôi mắt. Hành ví như đôi chân. Chân khỏe có thể đi xa, đi bền nhưng nếu mắt tối thì khó đạt mục tiêu muốn đến. Ngược lại, mắt sáng thấy suốt rộng xa, nhưng không đi thì cái đích muốn đến không bao giờ thành tựu.
Phật cùng ông A Nan đồng phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở thời Phật Không Vương. Nhưng Phật chú trọng hành (tinh tấn) cho nên Phật đã thành Phật. Còn ông A Nan thiên về học rông đa văn cho nên giờ hãy còn hộ trì pháp Phật và được Phật thọ ký.
Ông A Nan sẽ thành Phật hiệu Sơn Hải Huệ Tự Tại, nói rõ cái đạo lý:
“Gieo hạt gì thu hoạch quả ấy”.
Là Phật tử chúng ta hãy chính chắn nghĩ suy!
*****
PHẨM 10
PHÁP SƯ
Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ Phật nói với Bồ tát Dược Vương rằng: Trong đại chúng đầy đủ hạng người Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la…Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật đạo. Không để riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một câu, một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ, Như Lai đều thọ ký họ là người sẽ thành tựu quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật dạy tiếp: Sau Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu một bài kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ ký cho quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm, đẹp đẽ….Dược Vương nên biết các người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã thành tựu đại nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian đấy.
Dược Vương! Nếu có người hỏi trong thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành Phật. Vì sao ? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và dùng các thứ hương hoa, báu vật mà cúng dường, thì người đó đáng được nhân gian chiêm ngưỡng và cúng dường như cúng dường Phật, vì đó là hàng Đại Bồ tát đã thành tựu Chánh Giác nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện sanh trên đời để phân biệt giảng nói king Pháp Hoa. Dược Vương nên biết! Người đó từ bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng sanh truyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai diệt độ, nếu có trai lành, gái tốt có thể vì riêng một người mà nói kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu kinh phải biết người đó là sứ của Như Lai. Như Lai sai làm việc của Như Lai, còn nói chi người trong đại chúng vì nhiều người giảng nói!
Dược Vương! Nếu có người bất thiện, dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn nhẹ. Nếu có người hung hãn chưởi mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.
Dược Vương! Người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên dùng những thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trên cõi đời để cúng dường. Vì sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong khoảng giây lát bèn được tỏ ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ.
Rồi đức Phật dạy tiếp: Dược Vương! Kinh điển của ta nói có thể nhiều vô lượng, đã nói, đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của chư Phật, không thể truyền trao khinh xuất bừa bãi cho nhưng người không đúng đối tượng căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi vì Như Lai còn tại thế nói ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau Như Lai diệt độ.
Dược Vương nên biết: Sau Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói cho người khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong mười phương hộ niệm. Như Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng với Như Lai ở chung.
Dược Vương! Ở nơi chốn nào có kinh nầy hoặc giảng nói, hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong đó có toàn thân Như Lai rồi. nên dùng các thứ hương hoa, trân bảo, tràng phan….để cúng dường pháp. Người nào thấy tháp lễ bái cúng dường, phải biết những người đó đã gần gũi với quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa là Bồ tát chưa khéo tu đạo Bồ tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy, hoặc nghe, nghe rồi tin hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào giếng ở gò cao, đào thấy đất còn khô thì biết rằng mực nước còn xa . Khi thấy được đất bùn thì biết rằng gần tới nước. Bồ tát cũng vậy, thọ trì, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải biết quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Bồ tát đó gần kề.
Dược Vương! Nếu Bồ tát nào nghe kinh Pháp Hoa mà kinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh nầy mà kinh nghi sợ sệt, đó là hàng Thanh Văn tăng thượng mạn.
Dược Vương! Nếu trai lành gái tốt sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa sen của Như Lai mà thuyết kinh. Nhà Như Lai là tâm từ bi. Y Như Lai là nhẫn nhục, Tòa Như Lai là “Vạn pháp giai không”.
Dược Vương, Phật dù ở thế giới xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di) đến để nghe pháp và tin nhận thuận theo không chống trái. Nếu nói pháp ở chỗ vắng Như Lai sai Thiên long, Càn Thát Bà…đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác nhưng khiến người nước khác luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc cho họ nói kinh được đầy đủ.
Để lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ…..
THÂM NGHĨA
Pháp sư là người học hiểu chánh pháp, sống với chánh pháp, và truyền bá chánh pháp. Thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết đều được công đức vô lượng, đều được gọi Pháp sư.
Pháp Hoa Pháp sư cần có những điều kiện căn bản thể hiện trong đời sống hằng ngày, thì việc lợi mình lợi người mới được viên mãn.
Kinh nói
“Lấy đại từ bi làm nhà
Lấy nhu hòa nhẫn nhục làm áo
Lấy pháp không làm tòa ngồi
Ở nơi đó là thuyết pháp
Nếu lúc nói kinh nầy
Có người ác mắng nhiếc
Đá, ngói, dao, gậy hại
Nhớ Phật nên nhẫn nhục…”
Pháp Hoa Pháp sư có thể có khó khăn như vậy. Bởi vì kinh Pháp Hoa có những đặc điểm dị thường, ở nhiều kinh khác Phật chưa từng dạy đến.
- Chỉ nghe chừng một bài kệ hoặc một câu kinh Pháp Hoa, Phật cũng thọ ký cho thành Phật.
- Hoặc thọ trì, hoặc đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc giảng nói chừng một bài kệ, Phật nói người đó không phải người thường.
- Hỏi ai là người sẽ được thành Phật? Hãy chỉ những người có nghe và thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa.
- Dùng ác tâm chê mắng Phật trọn kiếp, tội còn nhẹ hơn chê mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.
- Đọc tụng kinh Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình.
- Kinh đã nói, đang nói và sẽ nói nhiều vô lượng, chỉ có kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu.
- Kinh Pháp Hoa là tạng bí yếu không trao dạy cho người không đúng đối tượng. Phật tại thế kinh Pháp Hoa còn bị nhiều người oán ghét, còn nói chi sau Như Lai diệt độ!
- Sau Như Lai diệt độ, có ai biên chép,thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa, Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu người đó.
- Chỗ nào có kinh Pháp Hoa hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói nên dựng tháp thất bảo cúng dường. Khỏi để Xá-lợi Phật mà trong đó có toàn thân Như Lai rồi.
- Pháp sư nói kinh Pháp Hoa nếu ở chỗ vắng vẻ, Phật sai Thiên long, bát bộ chúng đến nghe pháp. Còn Phật dù ở nước khác nhưng khiến cho vị Pháp sư luôn luôn thấy Phật. Và nếu quên mất câu nghĩa Phật dạy cho nhớ hiểu đầy đủ.
Quả là những sự kiện dị thường. Nếu có người bảo đó là chuyện hoang đường, thần thoại của thời tiền sử xa xưa, dường như chẳng có gì oan ức lắm.Người đệ tử Phật có trách nhiệm nghiên cứu tìm hiểu và dung hóa nó qua “bộ óc” trí tuệ để “nhận thức” lấy tinh hoa chánh pháp, bỏ đi cái bã văn tự ngôn từ vốn mượn để làm thứ “tá dược”. Cái tinh hoa của kinh Pháp Hoa là thứ dược liệu cực mạnh để trị chứng bệnh “tự khinh” nặng nề của chúng sanh. Chừng nào chúng sanh còn bệnh tự khinh thì Pháp Hoa Pháp sư chưa được nghỉ ngơi. Chừng nào chúng sanh biết mình là Phật, ở chung với Như Lai, thường thấy Như Lai, được Như Lai xoa đầu nhắc nhở….Bấy giờ, Pháp sư nhiệm vụ mới hoàn thành.
Ta hãy tìm hiểu mười sự kiện dị thường được nêu ở trên:
- Ta thử rút ra một câu kinh xem nào ?
“Tôi không dám khinh các Ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật” (ngã bất cảm khinh ư nhử đẳng, nhử đẳng giai đương tác Phật).
– Thế nào ? Bạn có bằng lòng chấp nhận “bạn sẽ thành Phật” không ?
– Có
Thế là Phật đã thọ ký cho bạn rồi đó. Nói rằng Phật thọ ký kỳ thật bạn thọ ký cho bạn chứ không phải cần đến Phật. Bởi vì Phật dù có nói thọ ký hay không, địa vị Phật, bạn cũng chẳng mất phần. Vì bạn đã nhận hiểu Phật tánh của bạn thì sớm hay chầy bạn sẽ thành Phật. Nói cách khác là bạn “trở về” với cái ông Phật tánh sẵn có của bạn. Bạn không biết mình là con trưởng giả nên phải đói rách lang thang lưu lạc. Khi bạn nhận ra ông trưởng giả là cha mình, bạn “trở về nhà” thì cái gia tài nguy nga đồ sộ, những kho tàng ngập đầy bảo châu vô giá của ông trưởng giả ấy là của bạn chứ còn của ai nữa ?
- Những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, Phật nói những người đó không phải là người thường.
– Tại sao vậy ? – Vì người thường vốn có tánh “tự khinh”. Họ không tin mình có khả năng thành Phật. Càng không thể tin rằng mình là Phật, có Phật chất, có Như Lai ở trong tâm mầu nhiệm. Người thường nghĩ rằng Phật phải là một ông không phải là mình thì mới là Phật. Ông đó ngồi trên chánh điện chùa, đi lửng thửng trên mây hay phải ngồi trên một tòa sen đẹp.
Hiểu Phật như thế thì biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa có nhằm gì! Cho nên họ chẳng cần làm việc đó. Ngược lại, người thọ trì, đọc tụng, tu tập kinh Pháp Hoa, tự tin Tri Kiến Phật của mình. Tin mình có tâm Như Lai mầu nhiệm. Rồi quyết chí tu hành, cải tạo vô minh, diệt trừ phiền não, do đó, sớm muộn gì cũng đến ngày thành Phật. Thế không phải sứ giả Như Lai là gì ?
- Nếu hỏi ai là người sẽ được thành Phật ? Hãy chỉ những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.
Vì sao vậy ?
– Vì người nầy tự tin mình thành Phật. Biết mình có Tri Kiến Phật, biết có Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.
- Dùng ác tâm chê mắng Phật trọn kiếp tội còn nhẹ hơn chê mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.
– Sao lạ thế ?
– Ta hãy chín chắn tư duy vấn đề nầy: Giả sử có người xỉ vào mặt ông Cù Đàm, ông Thích Ca Mâu Ni mà mắng. Thế nào ? Họ đã mắng được Phật chưa ?
– Xin đáp rằng: Chưa. Họ mắng như thế không trúng Phật. Họ chỉ mắng được ông Cù Đàm, ông Tất Đạt Đa, ông Thích Ca theo danh ngôn thường xưng gọi. Cái hiện tướng tứ đại duyên khởi là Phật thì cả thế giới thành Phật cả, còn ai để gọi là “chúng sanh” ? Phật là cái giác tánh linh tri, cái tinh hoa trí tuệ chứa đựng ở trong cái hiện tướng duyên sanh đó, cái đó là Như Lai, là Viên Giác Diệu Tâm, là Tri Kiến Phật. Tất cả cái đó chứa đựng trong toàn bộ hệ tư tưởng giáo lý Pháp Hoa Kinh. Cho nên chê mắng kinh Pháp Hoa tức là chê mắng Phật tánh mình, không tin mình có khả năng thành Phật. Người tự mắng, tự xua đuổi, tự khinh Phật mình như vậy tức là tự mình đốt cháy hạt giống thành Phật thì cái quả Phật dứt khoát tuyệt phần. Thế là làm cản trở con đường tiến lên Như Lai Phật, của tất cả chúng sanh, cho nên mang tội rất nặng.
Còn việc chê mắng ông Tất Đạt Đa, ông Thích Ca thì chưa đả động gì được Phật, Như Lai cả.
Ta ôn lại lời Phật dạy trong Kinh Bát Nhã Kim Cang:
“Nếu dựa vào 32 tướng cho là Như Lai
Dựa vào âm thanh thuyết pháp cho là Như Lai
Hiểu Như Lai như thế là người tà đạo.
Không hề thấy biết Như Lai đích thực.”
Hiểu Như Lai qua âm thanh sắc tướng không đúng thì mắng Như Lai qua hiển tướng và âm thanh cũng không nhằm được. Cho nên….gọi là tội chỉ là biểu lộ sự ác tâm của chính mình, tội “ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”, tôi “tự chiêu kỳ hoạ ấy…” chớ Như Lai cũng chẳng bắt tội làm gì. Và thật sự Như Lai cũng chẳng có quyền gì để bắt. Vì Như Lai không phải “đấng thiêng liêng” có quyền thưởng phạt.
“Tùy trần trục cảnh, ngã pháp hoạnh sanh, vô minh cứu cánh vọng thành tham, sân, si, mạn hữu lậu nghiệp”.
“Tuyệt tướng triền căn, tự tha bất cách, giác tánh bản lai cụ túc từ, bi, hỉ, xả vô lượng tâm”.
Đó là câu đối của cụ Tâm Minh Lê Đình Thám, tôi thích quá viết vào đây để tặng chư độc giả cùng thưởng thức. Và nhớ rằng nền giáo lý của Phật giáo đại để là vậy đó. Như Lai có quyền thưởng phạt ai đâu!
- Thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình.
– Có thật vậy không ? Tại sao ?
– Có. Tại vì đã chấp nhận, đã tin Phật tánh mình thì mình là Phật, tin tâm Như Lai của mình thì mình là Như Lai. Do đó cái gì Phật có, Như Lai có thì mình có. Người ăn mày thì không có cân đai áo mũ trưởng giả để mặc. Nhưng đã là trưởng giả thì mặc đồ trưởng giả, chứ sao!
- Kinh điển Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói nhiều vô lượng. Nhưng chỉ có kinh Pháp Hoa là khó tin và khó hiểu.
– Tại sao vậy ?
– Tại vì các kinh “phương tiện, bất liễu nghĩa” thì dễ thích hợp với chúng sanh căn cơ vốn hạ liệt, những tâm hồn yếu đuối thích ỷ lại vào sự ban ân, giáng phúc của một “đấng tha nhân”. Còn kinh Pháp Hoa thì Phật dạy phải tin mình là Phật. Niết bàn không phải ở “cảnh giới” xa xôi nào khác. Phải khai thác cái “tự tánh thanh tịnh Niết bàn”. Phải sử dụng “Niết bàn vô trụ xứ” của Phật. Vì thế chúng sanh khó hiểu và khó tin.
- Kinh Pháp Hoa phải đúng đối tượng mới nên trao truyền. Lúc Phật tại thế, kinh Pháp Hoa còn bị nhiều người oán ghét, huống là sau Như Lai diệt độ.
-Tại sao thế ?
– Tại vì chúng sanh có tánh tự khinh, không tin nổi rằng mình có thể thành Phật. Mà kinh Pháp Hoa thì chỉ thẳng cái Tri Kiến Phật sẵn có, khiến chúng sanh tự ngộ nhập, tự thành.
- Sau Như Lai diệt độ, có ai thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa. Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu người đó. Người đó cùng Như Lai ở chung.
– Sự thật có thế ư ? Hình mạo Như Lai thế nào, khi Như Lai làm những điều đó ?
– Như ta đã biết, Như Lai Viên Giác diệu tâm thì ai cũng có. Cái thể bất biến của tâm là Như. Cái dụng tùy duyên của tâm là Lai. Vì vậy, Như Lai là Thể Dụng là Tâm Tánh thanh tịnh bản nhiên vốn có của mọi người.
“Tâm sanh chủng chủng pháp
Tùy duyên thủy thượng âu
Tánh chân như bất biến
Như thủy, bổn thanh trừng
Bất biến tùy duyên chân thử tánh
Tùy duyên bất biến thị tha tâm
Minh tâm, minh liễu âu bào thượng
Kiến tánh thâm tri thủy diện trừng”.
Dịch:
“Tâm sanh ra muôn pháp
Tùy duyên như bọt nước xao
Tánh, chân như bất biến
Như nước vốn lặng trong
Bất biến tùy duyên là tánh ấy
Tùy duyên bất biến chính tâm nầy
Minh tâm ? Nhận rõ lao xao bọt
Kiến tánh ? Nhìn sâu mặt nước bình”.
Ai mà chẳng sống bằng tâm tánh, chẳng ở cùng tâm tánh, chẳng tương quan tác động giữa nhục thân và tâm tánh. Tách rời tâm tánh ra mà còn là một con người thì Phật không có nói bao giờ trong toàn bộ giáo lý Phật. Những đợt sóng “tùy duyên” bao giờ cũng phát xuất, cũng ở trong lòng nước “bất biến”. Nước duyên khởi ra sóng là việc dễ hiểu. Sóng nước không rời là việc tất nhiên. Cũng vậy, mọi người ai cũng có Tâm Tánh Như Lai, khi thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa là lúc “trở về” với Như Lai Tâm làm việc Như Lai Tánh thì được ở chung với Như Lai, được Như Lai rờ đầu vậy. Chỉ lo là mình có nhớ Như Lai, bằng lòng trở về ở chung với Như Lai không ? Hay là bỏ nhà đi hoang để cho Như Lai phải khắc khoải nhớ thương đứa con hoang “cùng tử” của mình.
Người ham thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, là người “trở về nhà” chớ không phải là “chàng cùng tử” tha phương cầu thực nữa, thì còn lạ gì việc ông trưởng giả choàng cho con mình chiếc áo đẹp, xoa đầu nựng nịu và ôm vào lòng ngủ chung một giấc yên lành mãn nguyện! Vì bởi cưng con mà!
- Chỗ nào có kinh hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, nên dựng tháp bảy báu cúng dường, nhưng không cần để Xá Lợi Phật, vì trong đó có toàn thân Như Lai rồi.
– Thân Như Lai là gì ? Không cần Xá lợi mà vẫn có toàn thân Như Lai trong tháp ?
– Sao lại dựng tháp để cúng dường kinh ? Đem phẩm vật để cúng dường cho Phật còn dễ hiểu. Dựng tháp để cúng dường kinh thì nghĩa lý thế nào ?
Kinh Pháp Hoa là Pháp, thứ pháp tối thượng thừa triển khai Tri Kiến Phật trong tất cả chúng sanh. Thế thì Pháp là Phật vậy. Tháp tức là Pháp. Mà tánh của Pháp tức là tánh của Phật, vì Phật tánh và Pháp tánh không hai. Danh thì khác mà thể thì đồng. Trong Pháp tánh có Phật tánh, trong Phật tánh có Pháp tánh.
Luật Hiển dương Chánh giác nói:
“Phật tánh tại hữu tình
Pháp tánh tại vô tri
Phật pháp bản lai vô nhị tánh
Nhất hỏa năng siêu bách vạn sài”.
Vốn cùng một tánh “chân như” nhưng tùy duyên sanh khởi và tác động vào hữu tình thì tánh chân như được trở thành tên gọi: “Phật Tánh”.
Cũng tánh chân như ấy tùy duyên vận động sanh khởi và tác động vào vô tình thì gọi là Pháp Tánh. Kỳ thực Phật Tánh và Pháp Tánh không hai. Ví như một thứ lửa đem đốt nhiều thứ củi mà tên lửa và độ nóng của lửa có khác: lửa phân bò, rửa rơm, lửa củi, lửa than đước, lửa than đá v.v….
- Pháp sư nói kinh Pháp Hoa ở chỗ vắng vẻ, Phật sai Thiên long, bát bộ và tứ chúng đến nghe. Phật dù ở chỗ khác nhưng khiến cho Pháp sư luôn luôn thấy Phật. Pháp sư quên, Phật dạy cho nhớ đầy đủ.
– Phải hiểu thế nào về sự kiện có vẻ huyền hoặc nầy ?
– Phải hiểu thế nầy: Tâm Pháp sư đã có sẵn Như Lai, Phật, tâm Pháp sư đã có đủ Tứ thánh, lục phàm, khắp trùm mười pháp giới. Phật và ta cùng ở chung nhau, lỡ quên mất câu lối thì “Thiên Định” để mời Phật đến, ôn cố tri tân, “tư duy” lời Phật, thì Phật, Như Lai Thanh Tịnh Tâm xuất hiện dạy bảo cho mà biết, mà nhớ. Phật Thích Ca cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm trước, cũng thỉnh Phật đến hộ niệm cho, để thuyết kinh Pháp Hoa cũng bằng lối nầy. Còn Thiên long bát bộ thì lúc nào chẳng túc trực ở tâm ta. Cứ “tư duy” trong thiền định, cứ giảng nói kinh Pháp Hoa đi, Thiên Long bát bộ vẫn nghe rõ, chín cõi chúng sanh đều nghe rõ.
Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai dù ở nước khác, nhưng “Như Lai Viên Giác, Tri Kiến Phật” lúc nào chẳng có ở lòng mình.
Muốn thấy Phật, gặp gỡ Phật chỉ cần dời chúng sanh đi nơi khác thì Phật cùng Pháp sư đối diện, đàm đạo Phật pháp, khó gì!
*****
PHẨM 11
HIỆN BẢO THÁP
Lúc bấy giờ trước Phật, có một ngôi tháp bằng thất bảo cao 500, rộng 250 do tuần từ dưới đất hiện lên rồi trụ lơ lửng giữa hư không. Ngôi tháp cực kỳ tráng lệ tỏa ra mùi thơm “ly cấu chiên đàn” khắp cùng cõi nước. Các hàng Thiên long bát bộ cùng đem các thứ phan lọng, hương hoa, chuỗi ngọc…của cõi trời để cúng dường tôn trọng và ngợi khen.
Bấy giờ trong tháp báu vang ra tiếng khen rằng: Hay lắm! Hay lắm! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, có thể dùng tuệ bình đẳng vì đại chúng nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Đúng vậy! Lời Thích Ca Mâu Ni nói là chân lý chân thật!
Trước sự kiện hi hữu nầy, đại chúng đều được pháp hỉ, đồng thời cho là chuyện lạ nhưng không ai nói ra, đều cung kính chấp tay đứng qua một bên.
Bồ tát Đại Nhạo Thuyết biết tâm niệm tứ chúng bèn bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Do duyên cớ gì mà có tháp từ đất hiện lên lại từ phía trong có tiếng vang ra như thế ?”
Đức Phật đáp: Trong tháp báu nầy có toàn thân Như Lai. Thời quá khứ cách nay vô lượng lâu xa, tại nước Bảo Tịnh có Phật Đa Bảo, lúc còn hành đạo Bồ tát, đã có lời thệ rằng, nếu được thành Phật thì, sau khi diệt độ, chỗ nào có nói kinh Pháp Hoa, tháp báu của Ngài sẽ hiện ra khen ngợi để chứng minh. Vì vậy, bất luận chỗ nào trong mười phương hễ có nói kinh Pháp Hoa thì tháp báu hiện ra, toàn thân Phật trong tháp nói: “Hay lắm! Hay lắm!
Bồ tát Đại Nhạo Thuyết thay lời đại chúng bạch: “Chúng con muốn thấy thân của đức Phật Đa Bảo”.
Phật Thích Ca đáp: Theo đại nguyện của Phật Đa Bảo, khi tháp của Ngài hiện ra mà có đức Phật nào muốn chỉ cho tứ chúng thấy thân của Ngài thì đức Phật ấy phải nhóm lại một chỗ tất cả “phân thân” của mình, rồi sau đó thân Phật Đa Bảo mới hiện ra. Vậy nay ta sẽ nhóm tất cả “phân thân” của ta hiện đang thuyết pháp ở các cõi nước trong mười phương.
Bấy giờ đức Thích Ca phóng một đạo hào quang từ tướng lông trắng giữa đôi mày, hằng sa cõi nước ở mười phương hiện bày, trong đó vô lượng Bồ tát đang vì chúng sanh nói pháp.
Thấy ánh sáng ấy, chư Phật mười phương đều bảo các Bồ tát: “Chúng ta phải qua thế giới Ta bà, chỗ của đức Phật Thích Ca để cùng cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai”. Chư Phật ấy đều là phân thân của đức Thích Ca.
Lúc bấy giờ, cõi Ta bà biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, có cây báu, vàng ròng trang nghiêm, không có tụ lạc thành ấp, xóm làng, biển cả, sông ngòi, rừng núi.
Mỗi đức Phật có một Bồ tát làm thị giả, các đức “phân thân” qua đến Ta bà, lên ngồi kiết già trên tòa sư tử đặt dưới cội mỗi cây báu, lần lượt như thế khắp tam thiên đại thiên thế giới mà vẫn không đủ chỗ ngồi.
Để dung chứa tất cả các phân thân, đức Thích Ca bèn biến thêm ở tám phương, 200 muôn ức na do tha nước, nước nào cũng thanh tịnh trang nghiêm.
Lại để có chỗ cho các phân thân Phật sẽ đến, đức Thích Ca dời Trời, người đi nơi khác, biến thêm 200 muôn ức na do tha nước khác, nước nào cũng thanh tịnh, trang nghiêm, bình đẳng như trên.
Chư phân thân Phật trong mười phương tuần tự về đủ nhóm ngồi ở tám phương. Chư Như Lai ngồi đầy khắp 400 muôn ức na do tha cõi nước.
Khi đâu vào đấy rồi, các phân thân Phật sai thị giả qua cõi Ta bà dâng hoa cúng dường Phật Thích Ca và dạy thị giả bạch rằng: “Như Lai có được ít bệnh, ít khổ, sức khỏe an vui và các Bồ tát Thanh Văn đều được an ổn chăng ?”. Sau khi cúng dường hoa, các thị giả bạch với đức Thích Ca là chư phân thân Phật đều muốn mở tháp báu đang lơ lửng trên không. Đức Thích Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lấy ngón tay mặt mở cửa tháp, làm vang ra một tiếng lớn như tháo khóa một cửa thành.
Tức thì tất cả chúng sanh trong hội đều thấy Đa Bảo Như Lai trong tháp báu ngồi trên tòa sư tử toàn thân nguyên vẹn như người nhập định. Lại nghe Đa Bảo Như Lai nói: “Hay lắm! Hay lắm! Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay quá. Vì muốn nghe kinh nên ta mới đến đây”. Hàng tứ chúng thấy việc chưa từng có, hân hoan đem các thứ hoa báu tung rải lên cúng dường Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Chia nửa tòa sư tử trong tháp báu, Phật Đa Bảo nói: “Phật Thích Ca! Xin mời lên ngồi trên tòa nầy”. Tức thời đức Thích Ca vào trong tháp ngồi kiết già trên chỗ được Phật Đa Bảo nhường.
Thấy hai Như Lai cùng ngồi xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp, đại chúng thầm nguyện: “Phật ngồi cao quá, cúi mong Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được gần Như Lai ở trên hư không”.
Đức Thích Ca bèn dùng thần thông tiếp đại chúng lên hư không, rồi nói lớn khắp bảo: “Nay chính là lúc nói kinh Pháp Hoa cho những ai ở Ta bà, có khả năng nói kinh ấy”.
Để diễn lại ý trên, đức Thích Ca nói một bài kệ mà đại ý như sau:
“Đức Phật Đa Bảo diệt độ đã lâu, nay vì muốn nghe kinh Pháp Hoa khó gặp mà hiện ra trong tháp báu, hà huống các người mà chẳng siêng nghe.
Ai nói được kinh nầy là đã thấy ta cùng Phật Đa Bảo và các vị phân thân Phật.
Các thiện nam tử! Nên suy nghĩ, phải phát nguyện rộng lớn mới nói được kinh Pháp Hoa. Đó là một cái khó hơng tất cả các thứ khó khác. Thật vậy, nói được tất cả các kinh điển khác: dời núi Tu Di, lấy chân hất ba ngàn đại thiên thế giới, dùng sự tướng mà rộng chỉ chân lý, lấy tay nắm bắt hư không, đemcả đại địa để lên móng chân rồi bay lên cõi trời Phạm Thiên, mang cỏ khô vào lửa mà không bị cháy, trì tám muôn bốn ngàn kinh điển rồi vì người đem nói ra, khiến chứng được sáu thần thông, nói pháp làm cho vô lượng chúng sanh đều đắc quả A La Hán, tất cả những việc làm ấy rất khó, nhưng chưa khó bằng sau khi Phật diệt độ mà nói kinh Diệu Pháp, trong đời ác trược, biên chép nắm giữ được kinh nầy, vì một người mà nói kinh nầy, nghe lãnh và tìm thâm nghĩa trong kinh nầy, tôn trọng và thực hành kinh nầy.
Kinh Diệu Pháp là bậc nhất. Thọ trì, đọc tụng được ắt làm cho chư Phật hoan hỉ. Ai làm được là người dũng mãnh tinh tấn. Đó mới thật là người trì giới, tu khổ hạnh, là người được mau chứng quả Vô thượng Bồ đề.
Đời sau, ai đọc giữ kinh nầy là Phật tử chân chánh, là bậc thuần thiện.
Sau khi Phật diệt độ, ai hiểu được kinh nầy là mắt sáng suốt của trời, người trong thế gian.
Trong cảnh đầy sợ hãi, ai nói được kinh nầy trong chốc lát, là người đáng cho thiên, nhân cúng dường”.
THÂM NGHĨA
Một ngôi tháp bằng thất bảo, cực kỳ tráng lệ nguy nga. Cao 500, rộng 250 do tuần, từ đất nổi lên trụ trong hư không rồi vang ra lời tán thán rằng: “Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa rất hay, dạy rõ về chân lý”.
Để cởi mở mối kinh nghi trong lòng đại chúng, đức Phật Thích Ca nói: “Trong tháp báu nầy có toàn thân Như Lai. Đó là Phật Đa Bảo. Phật và tháp báu nầy vốn có từ vô lượng vô số hằng hà sa kiếp…”
Quả là một việc ly kỳ!
Tháp tức là Pháp. Pháp mà đã có từ vô lượng vô số hằng hà sa kiếp mà vẫn trường tồn không hoại. Thế là không phải pháp hữu vi rồi. Ở đây ý Phật muốn giới thiệu và dạy cho chúng sanh biết về Pháp tánhvậy. Chỉ có Pháp tánh mới là pháp bất hoại, chân thường.
Phật Đa Bảo Như Lai “thọ lượng” lâu đời như ngôi bảo tháp, thì không phải là “ứng thân Phật”. Qua sự kiện nầy Phật muốn “chỉ” (Thị Phật Tri Kiến) cho chúng sanh biết về cái Phật tánh bất diệt là như thế đó.
Đất ở thế gian thì nay động mai chuồi, đây bồi kia lở bại hoại vô thường. Vậy đất trường tồn phải là đất bất sanh bất diệt vô thỉ vô chung, tuổi thọ của nó phải đồng với cái “thọ lượng” của Phật tánh, Pháp tánh ở trên đã nói. Có vậy mới dung chứa được cái tháp (Pháp)và Đa Bảo Như Lai (Phật) bất sanh bất diệt. Vậy đất đó phải là đấtTâm, là Tâm địa vậy.
Kinh Tâm Địa Quán nói: Trong tam giới lấy tâm làm chủ. Người năng quán tâm chắc chắn giải thoát, người không quán tâm chắc chắn trầm luân. Tâm chúng sanh ví như Đại địa. Ngũ cốc, ngũ quả từ đại địa mà sanh. Cái Tâm cũng thế, nó sanh ra pháp thế và xuất thế: Hữu học, Vô học, Độc giác, Bồ tát cho đến Như Lai. Do đó, Tam giới duy tâm. Tâm được gọi là Đất.
Vậy Pháp, Phật từ đất nổi lên, có nghĩa là Phật tánh, Pháp tánhkhông ngoài Tâm tánh. Tâm tánh bao trùm hàm chứa Phật tánh và Pháp tánh.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Tâm ví như chàng họa sĩ
Vẽ ngũ ấm thế gian
Tất cả thế gian nầy
Vạn pháp từ đây tạo
Tâm, Phật cũng như thế
Và Phật, chúng sanh cũng vậy
Tâm Phật và chúng sanh
Ba tên mà đồng một bản thể”.
Phật Đa Bảo khi tu nhơn có lời thệ sâu nặng: “Nếu tôi được thành Phật thì sau Phật diệt độ trong mười phương ở đâu có nói kinh Pháp Hoa thì tháp của tôi sẽ hiện đến để nghe và tán thán! “Hay lắm! Hay lắm! Và nếu đức Phật đó muốn giới thiệu thân tôi cho tứ chúng thấy thì phải nhóm hết phân thân Phật của mình đang thuyết pháp trong mười phương lại. Bấy giờ thân tôi mới hiện ra”.
Cái bổn thệ sâu nặng của Phật Đa Bảo nay đã thành hiện thực.
Sự kiện ấy có ý nghĩa gì ? Ta có thể hiểu sự kiện nầy qua hai ý:
Một, để chứng minh. Qua sự chứng minh nầy, nói lên ý nghĩa kinh Pháp Hoa là kinh Giáo Bồ tát Pháp Phật sở hộ niệm. Rằng kinh Pháp Hoa, đức Thích Ca đang nói là kinh của chư Phật trong hằng hà sa số kiếp đã nói. Đó là chân lý tối thượng của Phật thừa, không phải chỉ một mình Phật Thích Ca tự ý nói.
Hai, cũng qua sự chứng minh nầy, nhằm “tạo điều kiện” để Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng sanh biết rằng: “tuổi thọ” của “pháp thân Phật” về thời gian thì xuyên suốt “ba đời”, về không gian thì khắp giáp “mười phương”.
Đức Phật Thích Ca nhóm phân thân về cõi Ta Bà với phạm vi tam thiên đại thiên thế giới nhưng cõi Ta Bà không đủ chỗ ngồi. Phật phải biến thêm 200 muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước ở phương Đông, cũng không đủ chỗ ngồi. Lần lượt biến thêm ở phương Nam, phương Tây và phương Bắc số cõi nước cũng nhiều như vậy mà cũng không đủ chỗ ngồi. Phải tận dụng bốn hướng cạnh, Phật biến mỗi phương cạnh số cõi nước cũng bằng như thế. Bấy giờ mới đủ sức dung chứa số phân thân Phật của đức Thích Ca.
Kinh nói sự kiện nầy không phải để giới thiệu cái tài ảo thuật biến hóa của đức Phật với đệ tử mình. Không. Phật Thích Ca không bao giờ bằng lòng mình là nhà ảo thuật, dù là nhà ảo thuật thiên tài! Ở đây, cái “thâm nghĩa” của kinh nhằm giới thiệu dạy cho tứ chúng rằng:
Phật thường trụ và Pháp thường trụ
Sự hiện hữu của Tháp và Phật Đa Bảo tồn tại qua vô lượng vô số kiếp nhằm dạy Phật pháp thường trụ về mặt thời gian. Sự kiện Phật Thích Ca biến hóa cõi nước đầy khắp tám phương, cây báu Bồ đề, tòa sư tử (Pháp) và các phân thân Phật nhằm dạy Phật pháp thường trụ về mặt không gian vậy.
Do nghĩa đó, kinh nói: Người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa bất cứ ở điểm không gian nào và khoảng thời gian nào thường được Phật rờ đầu, lấy y mà trùm và được cùng Phật ở chung.
Tháp của Phật Đa Bảo vốn trụ trong hư không, Phật Thích Ca muốn mở tháp cũng phải trụ trong hư không. Tứ chúng muốn ra mắt Phật Đa Bảo phải nhờ sức thần Phật trụ trong hư không mới thấy được.
Người đệ tử Phật phải học lấy bài pháp sâu xa ấy. Đó là điều kiện tiên quyết của người con Phật có ý chí cởi mở những ràng buộc vương vấn khổ đau. Là con người thì còn ăn ở thì phải còn làm. Làm thì làm tất cả, nhưng rồi phải tập luyện xả đi tất cả, đừng trụ (Thật tế lý địa, bất thọ nhất trần, sanh diệt môn trung bất xả nhất pháp). Bởi Trụ là chấp, là mắc, là dính dáng. Có chấp, có mắc, có dính dáng là có khổ đau, không thấy được Phật.
Phật pháp: vô trụ (Đa Bảo Như Lai và tháp) vốn là cái chân lý vô trụ nên lơ lững trong hư không. Còn Phật Thích Ca sở dĩ được Phật Đă Bảo chia nửa tòa mời ngồi là do có khả năng “trụ hư không” để mở cửa tháp. Tứ chúng trong hội Pháp Hoa muốn thấy được Phật phải nhờ sức thần Phật chứ không phải là sức thần của Phật, nghĩa là nhờ sức tỉnh thức, giác ngộ chân lý, phủi giũ những vô minh chấp mắc, có khả năng trụ trong hư không rồi mới thấy được Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Trụ hư không có nghĩa là “Vô sở trụ”.
Kinh Kim Cang Bát Nhã nói “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ”. Tâm có chỗ trụ là xa rời chân lý phạm phải sai lầm rồi.
Phật Thích Ca tiêu biểu Thỉ giác mở tháp để ra mắt Phật Đa Bảo tiêu biểu bổn giác, bằng một chuyển biến lớn lao chớ không dễ dàng đơn giản. Yếu tố đầu tiên là khả năng “Trụ hư không”. Kế đó, phải có một nghị lực thần kỳ, một động tác nhẹ nhàng mà có khả năng phá vỡ một vật thể cách ngăn kiên cố, mở cửa tháp mà như tháo chốt cửa của một đại thành.
Sự thật trên đường tu tập của chúng sanh cũng đòi hỏi và nghị lực và khả năng như vậy. Bổn giác và thỉ giác vốn không có cự ly ngăn cách, thế mà vận động thỉ giác quay về trực diện với bổn giác, đòi hỏi phải có điều kiện, phải có nghị lực phi thường mới đạt mục đích ngang hàng với bổn giác được, mặc dù bổn giác là cái sẵn có, còn thỉ giác chỉ là sự phản chiếu hồi quang, sự “trở về” chớ không phải là cái chi mới lạ.
Khi đại chúng chiêm ngưỡng hai Như Lai, Phật Thích Ca tuyên bố: “Ai ở cõi Ta bà truyền bá giảng nói kinh Pháp Hoa phải hiểu rõ ý nghĩa của sự kiện nói trên. Như Lai chẳng bao lâu nhập Niết bàn và muốn phó chúc kinh Pháp Hoa cho người thừa kế có khả năng đó”.
Phải hiểu ý nghĩa những sự kiện Như Lai nói, người đó mới là người được Như Lai phó chúc kinh Pháp Hoa, mới là người có khả năng thừa kế truyền bá giảng nói kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ có ý nghĩa như sau:
Các thiện nam tử
Đều nên suy nghĩ
Đây là việc khó
Phải phát nguyện lớn
Bao nhiêu kinh khác
Số như hằng sa
Nói hết kinh đó
Chưa đủ làm khó
Bưng núi Tu di
Ném để phương khác
Vô số cõi Phật
Chưa lấy làm khó
Nếu dùng ngón chân
Khều cõi Đại Thiên
Ném xa cõi khác
Cũng chưa làm khó
Đứng trên hữu đảnh
Nói vô lượng kinh
Để giáo hóa người
Chưa lấy làm khó
Nếu sau Phật diệt
Ở trong đời ác
Nói được kinh nầy
Đây là rất khó
Giả sử có người
Tay nắm hư không
Để mà dạo đi
Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ
Nếu tự biên chép
Hoặc bảo người chép
Đây mới là khó
Hoặc đem cõi đất
Để trên móng chân
Bay lên Phạm thiên
Cũng chưa là khó
Tạm đọc kinh nầy
Đây thì rất khó
Giả sử kiếp thiêu
Mang gánh cỏ khô
Vào lửa không cháy
Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ
Nếu trì kinh nầy
Vì một người nói
Đây mới là khó
Nếu trì tám muôn
Bốn nghìn tạng pháp
Mười hai bộ kinh
Vì người diễn nói
Khiến các người nghe
Được sáu thần thông
Dầu được như thế
Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ
Nghe lãnh kinh nầy
Hỏi nghĩa thú kinh
Đây là rất khó
Hoặn người nói pháp
Làm nghìn muôn ức
Vô lượng vô số
Hằng hà chúng sanh
Chứng quả La Hán
Đủ sáu thần thông
Dầu có lợi đó
Cũng chưa là khó
Sau ta diệt độ
Nếu phụng trì được
Kinh điển nầy đây
Thế mới là khó
Ta vì Phật đạo
Ở vô lượng cõi
Từ trước đến nay
Nói rất nhiều kinh
Đối với kinh nầy
Đây là bậc nhất
*****
PHẨM 12
ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA
Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ tát và bốn chúng: trong quá khứ vô lượng kiếp, ta đã tìm cầu kinh Pháp Hoa không hề biếng trễ. Nhiều kiếp ta thường làm vua phát nguyện cầu đạo Bồ đề lòng không thối chuyển vì muốn đầy đủ 6 pháp Ba la mật, ta siêng làm việc bố thí lòng không luyến tiếc một vật gì, dù đó là tiền bạc, châu báu, đất đai, vợ con, tôi tớ hay thân thể của ta. Vì lòng mến chánh pháp, ta nhường ngôi cho Thái tử và truyền rao trong dân chúng, rằng ai nói được pháp Đại thừa cho ta nghe, ta sẽ trọn đời hiến thân làm tôi tớ hầu hạ.
Bấy giờ có họ Tiên, nhận tuyên nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, nếu nhà vua không trái ý ông. Vua chịu theo và hầu hạ vị Tiên làm đủ mọi việc, trải một ngàn năm hết lòng siêng năng vì trọng pháp.
Phật nói tiếp: Nhà vua thuở ấy nay là ta, còn vị Tiên nay là Đề Bà Đạt Đa đấy. Ta nay thành Phật là nhờ vị thiện tri thức đó. Trong vô lượng kiếp về sau, Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương, nước của Phật là Thiên Đạo. Phật Thiên Vương trụ ở đời 20 trung kiếp, hằng hà chúng sanh nhờ pháp nhiệm mầu của Phật mà được quả A La Hớn, quả Bích Chi Phật và phát tâm Vô thượng Bồ đề được Vô sanh pháp nhẫn đến bậc bất thối chuyển.
Sau khi Phật Thiên Vương nhập Niết bàn, chánh pháp trụ ở đời 20 trung kiếp. Nhờ cúng dường tháp bảy báu đựng toàn thân Xá lợi của Phật Thiên Vương mà chúng sanh được quả A La Hớn, Bích Chi Phật và phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật bảo các Tỳ kheo: Trong vị lai thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe phẩm Đề Bà Đạt Đa mà sanh lòng trong sáng, kính tin không nghi ngờ thì những thiện nam, thiện nữ ấy không đọa vào ba đường ác, được sanh nơi các nước Phật và chỗ người đó sanh thường được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu sanh vào cõi nhân thiên thì hưởng sự vui sướng tột cùng. Nếu sanh ở trước mặt Phật thì từ hoa sen hóa sanh.
Lúc bấy giờ Bồ tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tát Trí Tích: Thiện nam tử! hãy chờ giây lát ở đây có Bồ tát Văn Thù và ông cùng Văn Thù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về.
Lúc bấy giờ Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn từ nơi cung rồng Ta Kiệt La trong biển lớn vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh Thứu từ hoa sen bước xuống làm lễ đức Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca. Kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích rồi ngồi qua một bên.
Bồ tát Trí Tích hỏi Bồ tát Văn Thù : “Ngài qua cung rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sanh ?” Bồ tát Văn Thù đáp: Vô lượng, trong giây lát ngài sẽ tự chứng biết”.
Văn Thù nói chưa dứt lời, vô số Bồ tát ngồi hoa sen từ biển vọt lên, đến núi Linh Thứu, trụ trong hư không. Tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hóa độ.
Bồ tát Trí Tích thấy vậy bèn nói một bài kệ tán thán:
Đức của Đại trí thật mạnh mẽ
Hóa độ được vô lượng chúng sanh
Nay trong đại hội nầy
Tất cả nhận thấy rõ
Đại trí nói nghĩa “Thật tướng”
Mở bày pháp “Nhất thừa”
Rộng độ các chúng sanh
Khiến mau thành Chánh giác.
Bồ tát Đại Trí Văn Thù nói: Ở biển, tôi thường tuyên dạy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bồ tát Trí Tích hỏi: Kinh nầy rất thâm diệu. Vậy có chúng sanh nào siêng tu theo kinh nầy mà mau thành Phật không ? Bồ tát Đại Trí Văn Thù đáp: có con gái của Long vương mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trong khoảnh khắc phát Bồ đề tâm là được bất thối chuyển, biện tài vô ngại, từ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến quả Bồ đề.
Bồ tát Trí Tích nói: Chính đức Phật Thích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ, chứa nhiều công đức, làm những việc khó làm mới thành được đạo Bồ đề, làm sao tin được chuyện Long nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác. Luận đàm chưa dứt bỗng nhiên Long nữ hiện ra lễ Phật rồi đứng qua một bên nói bài kệ tán thán Pháp thân, Báo thân và Ứng thân Phật và cho biết là nàng do đã nghe được nghĩa “thật tướng” của nền giáo lý “nhất thừa” mà được chóng thành Bồ đề đạo. Nhưng việc nầy chỉ có Phật mới chứng biết mà thôi.
Bấy giờ ông Xá Lợi Phất nói với Long nữ: Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại: không được làm Phạm thiên, Đế Thích, Ma Vương, Chuyển Luân thánh vương và Phật thì làm sao cô thành Phật được ? Vả lại con đường Phật xa vời phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi cùng mà cô nói tu không bao lâu là chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác làm sao tin được ?
Long nữ liền lấy một hạt châu hiến dâng cho đức Phật. Phật nhận.
Long nữ hỏi Trí Tích: Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng ?
– Mau. Trí Tích đáp!
– Ông hãy lấy sức thần của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó.
Toàn thể chúng hội liền thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát qua cõi Vô cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ tát Trí Tích và Văn Thù làm thinh.
THÂM NGHĨA
Phật nói phẩm Đề Bà Đạt Đa như mở thêm một đại lộ trong hệ tư tưởng tối thượng thừa.
Kinh nói: “Nghe phẩm Đề Bà Đạt Đa mà kính tin không nghi hoặc thì người đó không đọa vào ba đường ác”.
* Nhà vua ham cầu pháp Đại thừa thuở xưa, nay là Phật Thích Ca. Tiên A Tư Đà trong quá khứ nay là Đề Bà Đạt Đa. Qua kinh sử Phật người ta biết nhiều về hành động thù nghịch của ông đối với Phật. Không những một hai đời mà còn lắm nhiều kiếp khác nữa. Ông tạo cơ mưu ám hại giết chết Phật, bày chước độc, phỉ báng thanh danh. Tiền thân Đề Bà Đạt Đa là người xấu, xan lẫn kinh pháp, trao đổi kinh sách với giá quá đắt. Hiện tại ông là người ác manh tâm hảm hại Phật nhiều cách nhiều lần. Căn cứ vào hành động tội ác đối với giáo lý Phật thì Đề Bà Đạt Đa thuộc hạng người “nhất xiển đề” trong Phật pháp. Thế mà Phật thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật hiệu Thiên Vương Như Lai….
Thọ ký Đề Bà Đạt Đa thành Phật đồng nghĩa với thọ ký “nhất xiển đề” thành Phật rồi vậy. Đây là một “giáo điều” cấm kỵ ở kinh điển bất liễu nghĩa trong hệ tư tưởng Tiểu thừa. Đối với hệ tư tưởng liễu nghĩa của Đại thừa thì đây là con đường khoát đạt mà vòi vọi đến tuyệt đỉnh của nền giáo lý “Diệu Pháp Liên Hoa”: “Tất cả mọi người là Phật”. Đây là tư tưởng đặc thù của kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa.
“Tất cả chúng sanh đều có thân tướng, có phước đức, có trí tuệ Phật” (nhất thiết chúng sanh cụ hữu trí tuệ Như Lai đức tướng) được Phật long trọng tuyên cáo ở thời Kinh Hoa Nghiêm mà đến thời Kinh Pháp Hoa này đức Phật mới tóm kết “bài pháp” dài gần 49 năm thuyết giáo của mình. Toàn bộ tư tưởng giáo lý Kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa là “kết luận” cuối cùng của thời pháp mấy mươi năm.
* Nghe phẩm “Đề Bà Đạt Đa” mà kính tin không nghi có nghĩa là mình tin Phật tánh mình, tin khả năng hoán cải của tâm mình và tin khả năng thành Phật của mình. Đã có được đức tin như thế, sớm muộn gì rồi cũng tu hành phát triển cái vốn liếng ấy, rồi cũng có ngày thành Phật. Đã biết mình có bảo châu trong túi áo thì ai dại gì để mình lang thang đói khổ suốt đời.
“Nhất xiển đề” mà còn được thành Phật hà huống Phật tử chúng ta không phải là hạng người “nhất xiển đề”.
Nghe phẩm “Đề Bà Đạt Đa” kính tin thì được phước lớn không đọa vào ba đường ác là do ở chỗ mình tin mình và mình không khinh mình vậy.
Đã là cuộc đời luôn luôn có mâu thuẩn, luôn luôn có mầm đối lập dù trong một cuộc đời, một thể thống nhất. Ngoại cảnh hay tự thân đều cùng chung một quy luật ấy. Có thiện thì có ác, có tốt thì có xấu. Đó là chân lý tất yếu của cuộc đời. Phật thuật chuyện Đề Bà Đạt Đa xấu với Phật trong quá khứ, ác với Phật trong hiện tại nhằm nhắc cho hàng Phật tử chúng ta về quy luật tất yếu tất nhiên đó. Đừng nghĩ rằng mình thiện thì luôn luôn có cái thiện, điều tốt nó đáp lại ngay cho mình, và đừng có cái xấu, việc không may, người không lành đến với mình. Vấn đề “nhân quả” trong đạo Phật không phải quá giản đơn như người ta tưởng, mà nó vận hành theo nhịp độ thời gian làm cho nhân quả khác thời khác giống và không khư khư cố định. Ta đang chăm sóc cánh đồng lúa rất tốt nhưng có khi phải ăn khoai ăn bắp mà làm công việc đó. Có người hiện tiền thụ hưởng mỹ vị cao lương, lụa là nhung gấm, ai có ngờ mấy năm sau họ trở thành người bần cùng cơ cực.
* Có lửa cao mới biết tuổi vàng, có chở nặng mới biết sức mạnh của con long tượng. Có kẻ ác như Đề Bà Đạt Đa thì sức tinh tấn của Phật trong quá khứ, sức nhẫn nhục của Phật ở hiện tại mới thành tựu đến đỉnh cao: “Ba la mật”. Nếu người biết học đạo, kẻ ác cũng có thể là thầy ta được. Ta sẽ học với họ cái mà ta vĩnh viễn phải chừa.
Danh hiệu của một Bồ tát là biểu trưng, một sự thể hiện đạo đức và là hành vi của Bồ tát ấy. Danh nói lên cái hạnh. Đại Trí Văn Thù biểu trưng “căn bản trí”, thứ trí tiếp nhận chân lý, thể nhập thật tướng một cách vô ngại tự tại. Trí Tích biểu trưng thứ trí “hậu đắc”, đối với thật tướng chưa thể thoải mái tiếp thu. Vì vậy, với giáo lý Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, ngồi nghe không phấn khởi, không có gì tâm đắc cho nên thỉnh cầu đức Phật Đa Bảo hãy trở về nước cũ. Trái lại, Đại Trí Văn Thù thì tâm đắc Diệu Pháp Liên Hoa cho nên thường tuyên giảng cho chúng sanh ở Long cung.
Qua sự kiện đó, ta thấy Kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa là kinh tối thượng tối tôn, nhưng không phải quí với mọi hạng Bồ tát trên cõi đời. Có người ham thích mà cũng có người không thể nghe, không thể hiểu và không thể chấp nhận.
* Biển cả mênh mông bão to sóng lớn mà có thuyền tàu chắc chắn, có thủy thủ tài ba thì vẫn có thể cứu vớt được những ai lâm nguy đắm chìm trong đó. Chúng sanh dù chìm lặn trong sông ái biển mê, mà được Đại Trí Văn Thù giáo hóa cho, cầm lèo bẻ lái cho thì sóng gió vô minh không nhận chìm được mà còn có được tòa sen báu để ngồi. Lại còn có khả năng vọt lên không trung để vượt khỏi những trần tục nhiễm ô dính mắc. Thành quả to lớn do sự hướng dẫn của Đại Trí Văn Thù vẫn còn chưa hết. Tất cả Bồ tát ngồi trên tòa sen lại còn thẳng lên núi Linh Thứu đến chỗ Phật, có nghĩa là nhờ có Đại trí mà đưa con người từ biển mê vượt lên núi giác và ở đây không những diện kiến được Phật hiện tại là Thích Ca Mâu Ni mà còn được ra mắt Phật Đa Bảo Như Lai vô lượng kiếp xa xưa trong quá khứ.
Đa Bảo Như Lai biểu trưng Pháp thân Phật, Thích Ca Mâu Ni biểu trưng ứng thân Phật.
* “Đại trí” là yếu tố căn bản để vượt ra biển khổ “Ta bà”, “Đại trí” cần cho những ai muốn gặp Phật. “Đại trí” là điều kiện cần thiết hướng dẫn lên tận đỉnh cao của giải thoát giác ngộ. Nhờ “Đại trí” mà có cơ hội ra mắt Phật Hiện tại. Nhờ “Đại trí” mà hội ngộ vô số Phật Vị Lai.
* Phật tánh vốn bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, không có giai cấp trong chủng tộc, không có hạn cuộc trong lứa tuổi, không có phân biệt trong giới tính nam nữ; thậm chí trong hạng người mà người ta cho là còn phần nào về “súc sanh tính”; người mà người ta có thể quan niệm không mấy đẹp đẽ, thông minh như nàng Long nữ (rồng cái). Thế nên nếu có ý chí chịu học hỏi, ham tu tập theo sự hướng dẫn của “Đại trí” thì vẫn có khả năng chuyển biến lại và cuối cùng vẫn thành Phật.
Câu chuyện Long nữ tám tuổi thành Phật, đức Phật dạy cho Phật tử chúng ta về chân lý Phật tánh bình đẳng đó.
* Cuộc đối thoại giữa ông Xá Lợi Phất và Long nữ về “người nữ có 5 điều trở ngại….không được thành Phật…”. Ông Xá Lợi Phất nói đúng, biết đúng chớ chẳng phải sai. Nhưng cái thấy biết đó là cái thấy biết của người căn cơ chủng tánh Nhị thừa, được học thuộc qua những kinh điển bất liễu nghĩa.
* Sự thành Phật mau chóng của Long nữ ở thế giới Vô cấu là một chứng minh cho nền giáo lý Đại Thừa nữ nam bình đẳng và phủ định quyết liệt về cái thuyết “người nữ có năm điều chướng ngại…” của nguồn tư tưởng “sách lược” ở kinh điển Tiểu thừa.
Tuy nhiên, thực tế khách quan mà nói, đa số phái nam chất cương nghị quả cảm, lý trí nhiều và mạnh bạo hơn phái nữ. Cho nên gọi “chuyển nữ thành nam” có nghĩa là trước khi thành bậc đại giác ngộ cần có chất liệu của một “nam nhân”. Được vậy, để có thái độ dứt khoát giữa hai con đường tình cảm và lý trí, vô minh và giác ngộ, triền phược và giải thoát. Còn cái nam căn hay nữ căn không phải yếu tố quan trọng cản trở sự giải thoát giác ngộ đối với một vị Phật.
*****
PHẨM 13
KHUYẾN TRÌ
Lúc bấy giờ Bồ tát Dược Vương và Bồ tát Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ tát quyến thuộc, ở trước Phật nói lên lời thề rằng:
Cúi xin Thế Tôn chớ lo, sau Phật diệt độ chúng con sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh trong đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm, tham lợi háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó giáo hóa như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẫn lớn, trì tụng, biên chép, giảng nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân mạng để giáo hóa cho họ.
Bấy giờ, trong chúng 500 A La Hớn đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn! chúng con cũng tự thệ nguyện truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.
Lại có 8.000 ngàn vị hữu học vô học cũng đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi nước khác nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta bà phần lớn con người hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, hận thù, nịnh hót vì tâm không thành thật.
Lúc bấy giờ bà dì của Phật là Tỳ kheo ni Ma Ha Xà Ba Đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu học và vô học, đồng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không tạm rời. Thế Tôn mới hỏi: Kiều Đàm Di! Vì cớ nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy ? Phải chăng vì ta không kêu tên thọ ký cho chúng ngươi ? Này Kiều Đàm Di, ta trước thọ ký tổng quát cho tất cả Thanh Văn, nay ngươi đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau, ngươi sẽ làm Đại Pháp sư của 68.000 Phật pháp, còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu học và vô học, cũng sẽ làm Pháp sư. Lần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Như Lai. Này Kiều Đàm Di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, mẹ của La Hầu La là Tỳ kheo Gia Du Đà La thầm nghĩ: Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng mình chẳng nói tới tên ? Phật kêu Gia Du Đà La nói: Đời sau, trong năm ngàn vạn ức pháp môn của Phật, ngươi sẽ tu hạnh Bồ tát, làm Đại Pháp sư, lần hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu “Cụ túc thiên vạn quang tướng Như Lai”.
Kiều Đàm Di, Gia Du Đà La và tất cả Tỳ kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng có.
Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ kheo ni bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các nước phương khác không ?
Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức na do tha Bồ tát. Các Bồ tát nầy, toàn là bậc bất thối chuyển và đã được các “tổng trì”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng: “Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật mà rộng nói kinh nầy”. Rồi lại nghĩ: “Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng con sẽ nói gì đây ?”.
Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thỏa mãn ý nguyện của mình, các Bồ tát liền thệ lớn trước Phật: “Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh nầy, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh, được như thế là toàn nhờ uy lực của Phât. Cúi xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ trì!”.
THÂM NGHĨA
Là đệ tử Phật vấn đề Văn – Tư – Tu phải là một tiến trình liên tục không thể thiếu. Cái vạc ba chân, thiếu một không đứng vững. Văn – Tư – Tu thiếu một, sẽ không có quả giải thoát giác ngộ.
Nguyện trì Kinh Pháp Hoa đồng nghĩa với nguyện tu theo Kinh Pháp Hoa, chấp trọ hành trì theo giáo lý Pháp Hoa. Đó là ý nghĩa trì kinh ở mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, trì có nghĩa là xiển dương, là truyền bá, là biên chép, giảng nói cho nhiều người nhập Tri Kiến Phật. Chữ trì ở phẩm nầy gồm ý nghĩa cả hai mặt đó.
Từ các phẩm trước được khai thị về Tri kiến Phật. Đại chúng trong hội Pháp Hoa đã nhận thức rõ về “Chánh nhơn thành Phật” của mình: Rằng Tri kiến Phật hay là Phật tánh là cái mà tất cả chúng sanh bình đẳng có. Còn thành Phật hay sẽ thành Phật chỉ là vấn đề thời gian, cũng như sự phát triển sớm muộn của hoa sen trong cánh đồng sen vậy. Điều kiện đất, nước, thời tiết thuận lợi thì sen ở đây mọc sớm, trổ hoa sớm, hoa to và đẹp. Đất xấu, điều kiện trợ duyên kém thì hoa nở muộn…Dù muộn, nhưng tánh chất trong nhân có sẵn quả: quả ở chính trong nhân của tất cả hoa sen thì không có một mảy may sai khác.
Trì kinh là Duyên nhơn Phật tánh, là điều kiện kích phát sức nẩy nở làm cho hoa Tri kiến nở nhanh, cũng như đất nước, thời tiết cần cho sự nẩy nở hoa sen vậy.
Nhưng ai là người có khả năng trì kinh tốt nhất ? Có gì khó khăn trở ngại trong việc trì kinh ?
Có bốn hạng người có khả năng làm việc đó:
- Hàng Đại Bồ tát (những người giàu đức tánh vô ngã vị tha)
- Bậc A La Hớn (những người trừ sạch nhân hữu lậu trong ba cõi)
- Hàng hữu học vô học (những bậc nhập lưu, đi theo chiều hướng giác ngộ giải thoát)
- Hàng Tỳ kheo ni (những người quyết tâm tu giải thoát)
Trì kinh với nghĩa tiêu cực thì tất cả giống nhau, bốn hạng người có cùng ý chí ham tu hiếu học đối với Kinh Pháp Hoa.
Nhưng về mặt tích cực, phát nguyện trì kinh phải có điều kiện:
– Phải có nhiệt tình, vô ngã vị tha
– Phải có khả năng nghị lực
– Phải có trình độ kiến thức nội minh
– Phải có biện tài chinh phục v.v…
Bởi lẽ địa bàn hoạt động truyền bá Kinh Pháp Hoa không phải ở lãnh vực nào cũng thuận lợi, ở quốc độ nào cũng dễ dàng.
Ta hãy nghe về tinh thần bất khuất chuẩn bị chịu đựng sự khó khăn của những Bồ tát tự nguyện trì Kinh Pháp Hoa ở cõi Ta bà, qua bài kệ dưới đây:
Cúi mong Phật chớ lo
Sau Phật diệt độ rồi
Trong đời ác ghê sợ
Chúng con sẽ rộng nói
Dầu có người không trí
Dùng lời ác mắng rủa….
Cùng gậy dao đập chém
Chúng con đều sẽ nhẫn
Dầu Tỳ kheo đời ác
Trí tà dâm vạy méo
Chưa chứng, xưng đã chứng
Kiêu căng đầy trong lòng
Hoặc có hạng “A Nhã”
Y, nạp xem ra Phết
Tự cho hành nhân đạo
Xem nhẹ người thế gian
Vì lòng tham lợi dưỡng
Thuyết pháp cho bạch y
Với ý được cung kính
Như lục thông La Hớn
Lòng hạng ấy chứa ác
Thường nghĩ việc thế tục
Giả danh A luyện nhã
Bới sai lầm chúng con
Mà nói những lời nầy:
Các thầy Tỳ kheo ấy
Vì lòng tham lợi dưỡng
Luận giả theo ngoại đạo
Tự tạo kinh điển nầy
Láo dối người thế gian
Hoặc vì cầu danh tiếng
Mà phân biệt kinh này
Hoặc thường trong đại chúng
Muốn nói xấu chúng con
Hướng nhà vua, quan lớn
Bà La Môn nhà giàu
Cùng các Tỳ kheo khác
Mà phỉ báng chúng con
Bảo chúng con tà kiến
Luận giải theo ngoại đạo
Vì lòng kính tin Phật
Chúng con đều sẽ nhẫn
Dầu họ có khinh khi
Tự xưng là Phật sống
Trước lời kiêu ngạo ấy
Chúng con cũng sẽ nhẫn
Trong đời ác kiếp trược
Có nhiều sự sợ hãi
Các quỉ nhập thân người
Mắng rủa nhục chúng con,
Chúng con kính tin Phật,
Sẽ mang giáp nhẫn nhục
Để giảng nói kinh nầy,
Chúng con sẽ nhẫn mọi khó
Thân mạng không hề tiếc
Chỉ tiếc vô thượng đạo
Chúng con trong đời sau
Sẽ giữ gìn lời Phật
Thế Tôn sẽ tự biết
Tỳ kheo đời ác trược
Không biết Phật phương tiện
Tùy nghi mà thuyết pháp
Châu mày dùng miệng ác
Lúc lúc đuổi chúng con
Xa lìa nơi chùa tháp
Các việc ác như thế
Nhớ lời Phật dạy bảo
Chúng con sẽ nhẫn hết
Nơi thành ấp, tụ lạc
Nếu có người cầu pháp
Chúng con đều đến nơi
Nói pháp của Phật truyền
Chúng con là sứ Phật
Ở trong chúng không sợ
Vì thiện sẽ nói pháp
Xin Phật hãy an lòng
Nay đứng trước Thế Tôn
Cùng mười phương chư Phật
Chúng con có lời thệ này
Phật ắt tự rõ lòng con.
Sự khó khăn của Bồ tát trì kinh Pháp Hoa ở cõi Ta bà như thế đấy. Tìm hiểu nguyên nhân ta thấy:
- Phát xuất từ hàng Tỳ kheo được mệnh danh làTăng thượng mạn. Họ tự bảo thủ quả vị La Hớn cho là cứu cánh Niết bàn, không có ý mong cầu thành Phật. Từ mặc cảm tự ti nầy họ chống đối phỉ báng Kinh Pháp Hoa.
- Xuất pháp từ lòng Tỳ kheo mưu cầu lợi dưỡng; hạng người nầy cố chấp tự tôn, cho rằng mình, chỉ có mình là người tuchơn đạo khả kính trên thế gian nầy. Còn tất cả người thế gian không có ai có thể đạt đến cái chơn đạo của họ tu chứng.
Trong khi nền giáo lý Pháp Hoa chủ trương khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật Tri kiến; tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành. Quả là một tạc đạn bắn ra sụp đổ hai tòa nhà bảo thủ tự ti và cố chấp tự tôn của hai hạng người tiêu nha bại chủng ấy. Do đó, họ công kích, phỉ báng những Bồ tát trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở cõi Ta bà. Vì thế, phát nguyện trì kinh ở cõi Ta bà chỉ có Bồ tát Đại Dược Vương, vua của y dược sĩ, có khả năng trị bệnh tà kiến tự tôn, tự ti của thế nhân. Và Bồ tát Đại Nhạo Thuyết, nhà biện tài vô ngại, có khả năng tồi tà phụ chánh, cầm đầu thì việc làm mới thành tựu tốt đẹp. Nói rõ ra là muốn xiển dương truyền bá kinh Pháp Hoa ở vào đời ngũ trược nầy phải là người có những đức tánh của một Bồ tát vô ngã, vị tha, cương nghị, quả cảm, thông minh, trong đó nội minh phải vững vàng, có biện tài, có khả năng thuyết phục, giải đáp được những chấp mắc sai lầm v.v…thì mới đủ điều kiện triển khai truyền bá Kinh Pháp Hoa; nếu không có những yếu tố cần thiết đó thì khó mà trì kinh ở cõi đời lắm người “tự ti”, lắm người “tự tôn” vì mưu cầu hư danh huyễn lợi nầy.
Hàng Đại A La Hớn, những người hữu học vô học, các hàng Tỳ kheo ni, trước Phật có phát nguyện trì kinh; nhưng không ở trong hàng ngũ của Bồ tát Đại Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết thì xin đi nước khác mà trì, vì ở nước khác sẽ được an lành hơn, không có đối lập nguy hiểm như ở cõi Ta bà. Biện tài không giải đáp nổi nghĩa lý thậm thâm; trí lực và pháp lực không đủ khả năng trị liệu các bệnh tà kiến, biên kiến, kiến thủ của người đời thì nên đi “cõi khác” mà truyền bá kinh Pháp Hoa vậy.
*****
PHẨM 14
AN LẠC HẠNH
Bấy giờ, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Thế Tôn! Các Bồ tát này làm việc khó có là phát nguyện hộ trì, đọc tụng, giảng kinh Pháp Hoa trong đời ác trược về sau. Thế Tôn! Làm thế nào mà các vị Bồ tát này nói được kinh Pháp Hoa trong đời ác trược ? Phật bảo Văn Thù: Nếu Bồ tát Ma ha tát, ở đời ác trược, muốn nói kinh nầy thì nên an trú vào 4 pháp sau đây:
- Hành xứ:Bồ tát hành xứ là đứng vững trên đất nhẫn nhục, dịu hòa thuận thảo mà không nóng nảy, tâm cũng chẳng sợ sệt, lại ở trong muôn vật mà lòng không xao xuyến, xem muôn vật trống không như “thật tướng”, không nghĩ ngợi gì mà cũng không phân biệt.
- Bất thân cận xứ:Bồ tát không gần gũi:
– Hạng người quyền thế (vua, con vua, quan lớn, quan nhỏ).
– Hạng người tu theo ngoại đạo (Phạm chí, Ni kiền tử…).
– Hạng văn nhân, thi sĩ của thế tục
– Các phái Lộ-già-da-đà, Nghịch lộ già-da-đà.
– Hạng người chơi hung, lấy sự đâm chém, đánh đá làm thích.
– Bọn Chiên đà la.
– Hạng người làm sai giới luật như nuôi heo, dê, gà, chó, đi săn, chài lưới.
Những người trong các giới ấy, nếu có lúc họ đến với mình, thì Bồ tát vì họ mà giảng dạy cho họ nghe, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Cũng không nên làm thân với những người cầu được làm Thanh Văn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, cũng không nên hỏi chuyện họ. Dầu ở trong phòng, dầu lúc đang đi kinh hành, dầu lúc ở giảng đường, bất luận ở đâu, không nên cùng họ đứng cùng một chỗ. Nếu gặp lúc họ đến với mình thì tùy nghi mà thuyết pháp, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát lại còn không nên ngó thân người nữ mà sanh lòng ham muốn rồi nói pháp cho họ nghe, cũng đừng ưa thấy nữ nhân. Khi vào nhà người, đừng nói chuyện với trẻ gái nhỏ, con gái lớn và đàn bà góa. Cũng không nên gần những người “bất nam”. Đừng một mình vào nhà người. Nếu có duyên cớ cần phải vào nhà người một mình, thì phải giữ một tâm niệm Phật.
Khi nói pháp cho đàn bà, con gái nghe, đừng cười hở răng, đừng bày hông, ngực. Thậm chí đối với người vì pháp mà đến, cũng không nên gần gũi thân mật với họ, hà huống là đối những người đến vì chuyện khác.
Không nên thích nuôi những đệ tử ít tuổi, những sa di trẻ con. Cũng không nên ưa dùng chúng một thầy, mà nên ưa ngồi thiền ở chỗ vắng lặng, sửa nắm tâm mình.
Đó là “Bất thân cận xứ” thứ nhất của Bồ tát.
Lại nữa, Bồ tát phải thấy muôn vật đều “không” như “thật tướng”, không điên đảo, không động, không thối, như hư không, thấy muôn vật không có thực tánh, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, vô danh, vô tướng, thực không có gì cả, vô lượng vô biên, vô ngại, vô chướng: thấy những danh từ lời nói dùng để chỉ vật nầy sự nọ, đều là trái với chân lý (ngữ ngôn đọa đoạn), chỉ vì cái nguyên nhân đảo điên nên mới thế này thế nọ. Phải vui xét cái tướng của vạn vật là như thế.
Đó là “Bất thân cận xứ” thứ nhì của Bồ tát.
- An lạc hạnh:Phật nói tiếp: Sau Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp muốn nói kinh nầy, Bồ tát phải ở yên trong “An lạc hạnh”. Nghĩa là, khi nói cũng như khi đọc kinh nầy, chẳng nên nói đến sự sai quấy của người và của kinh điển, cũng chẳng nên có lòng khinh rẻ, kiêu ngạo đối với các Pháp sư, chẳng nên nói đến sự tốt xấu, hay dở của người khác. Đối với hàng Thanh Văn, chẳng nên kêu đích danh mà vạch sự sai lầm, gàn dở của họ, cũng không nên kêu đích danh mà khen tặng cái hay của họ, lại cũng không sanh tâm thù hiềm. Khéo sửa lòng cho được an lạc như vậy thì không làm nghịch ý người nghe. Còn có ai vấn nạn thì đừng giải đáp bằng pháp tiểu thừa, mà bằng pháp đại thừa, để cho người hỏi được Chánh giác.
Bồ tát muốn thuyết pháp phải giữ lòng an vui, trong sạch, thân thể phải tắm rửa cho sạch, mặc y mới. Nói tóm là trong ngoài phải thanh tịnh, nhiên hậu mới nên ngồi pháp tòa, tùy lời hỏi của người mà giảng. Đối với người vì Đạo thì đem diệu nghĩa ra mà dạy, mặt mày hòa nhã. Đối với người vấn nạn, thì tùy nghĩa mà đáp, khi thì dùng nhân duyên, khi thì dùng thí dụ mà diễn mà giải rạch ròi, để lần hồi dẫn dắt họ vào đường sáng (Phật Đạo). Tự mình, phải trừ mọi ý niệm ỷ lại, mọi tư tưởng lười biếng, xa lìa mọi lo nghĩ, buồn rầu. Mở rộng lòng từ, ngày đêm nói pháp để mở mắt cho chúng sanh mà không bao giờ mong cầu sự cúng dường, chỉ một lòng tưởng nhớ đến việc lấy pháp làm nhân duyên để thành Phật đạo, khiến người nghe cũng cùng một tâm niệm.
Trong thời mạt pháp, Bồ tát nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì không nên chứa chấp sự ganh ghét, tà vạy, khinh khi người học Phật, không làm cho hàng tu hành chán nản, cũng không nên đem Đạo Pháp ra bàn chơi, tranh cãi. Phải:
– Đối với tất cả chúng sanh, khởi lòng đại bi.
– Đối với chư Như Lai, sanh lòng kính trọng như Cha lành.
– Đối với Bồ tát, sanh lòng tôn kính như Thầy.
– Đối với mười phương Bồ tát, sanh lòng cung kính cúng dường.
Thực hiện đầy đủ pháp “an lạc” thứ ba nầy, thì khi thuyết kinh, không làm cho người nghe hoang mang, được người cùng theo mình mà đọc tụng, còn đại chúng sẽ tới nghe lãnh lời kinh, lãnh rồi nắm giữ, giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ chép và khiến người cùng chép.
- Phát Đại bi tâm:Lại nữa này Văn Thù! Trong đời mạt pháp, ai là người muốn nắm giữ kinh Pháp Hoa, phải sanh đại bi tâm đối với hàng xuất gia và tại gia. Đối với người chẳng phải là Bồ tát (chưa tu hạnh vị tha), cũng phát đại bi tâm mà nghĩ như vầy:
Như Lai phương tiện tùy nghi thuyết pháp, mà họ lại chẳng nghe, chẳng biết, chẳng tỉnh, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giữ, thật là bất lợi vô cùng. Ngày nào ta được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sẽ dùng thần lực trí lực mà dắt dẫn họ vào yên trong Đạo Pháp.
Đó là “an lạc” thứ tư.
Như Lai diệt độ rồi, Bồ tát nào thành tựu được pháp thứ tư nầy thì khi thuyết kinh Pháp Hoa, không bao giờ có sự sai lầm, mất mát. Người thế gian từ vua tới dân, sẽ cung kính cúng dường, trong hư không Chư Thiên sẽ luôn luôn hộ vệ cho. Tại sao thế ? Vì kinh nầy được chư Phật ba đời bảo hộ. Này Văn Thù, trong vô lượng cõi nước, nghe được tên kinh nầy còn chưa có, hà huống được thấy, được thọ trì, đọc tụng. Thí như nhà vua dẹp giặc xong, muốn thưởng công tướng sĩ, có thể cấp cho đất cát, y phục, ngọc ngà, châu báu, xe ngựa, nô tỳ, nhưng không bao giờ cho viên ngọc vô giá trên mão của vua. Như Lai cũng thế. Nhờ sức mạnh của thiền định và trí tuệ, Như Lai làm vua “nước Pháp”, thống ngự ba cõi. Vì ma vương không hàng phục nên Như Lai mới dùng Hiền Thánh làm tướng để đánh ma vương. Đối với các bậc hữu công trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho tiền của: thiền định, giải thoát, vô lậu. Thành quách: niết bàn. Tạm nói là diệt độ, để dẫn dắt tâm họ, khiến mọi người hoan hỉ, nhưng chưa vì họ mà nói kinh Pháp Hoa. Nhưng khi binh sĩ lập được công to, nhà vua sẽ cho viên ngọc vô giá. Như Lai cũng thế, thấy đội công Hiền Thánh đã lập được đại công chiến thắng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, đã diệt ba độc, ra khỏi ba cõi phá lưới ma, nên ban cho kinh Pháp Hoa là lời thuyết cao cả nhất của Như Lai.
THÂM NGHĨA
An Lạc Hạnh là việc làm đem lại sự an vui. Đạo Phật dạy tu hành nhằm đem lại cho mọi người sự an vui trong cuộc sống. Chớ Niết bàn không phải là một “cảnh giới” xa xăm nào khác.
Ở phẩm kinh nầy, Phật dạy cho các Bồ tát, cho những ai phát tâm nắm giữ, duy trì, truyền bá, giảng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa những phương cách đem lại cho mình, cho người nghe đều được sự “an lạc”.
Để cho sự thọ trì truyền bá giảng nói được trong sáng, cảm thông sâu sắc giữa người nói và người nghe, một Pháp sư Pháp Hoa cần lưu tâm bốn điểm. Thực hiện bốn điều nầy không sai phạm thì hành giả Pháp Hoa có được sự lợi ích “an lạc” trọn vẹn. Bốn điều đó là:
– Hành xứ
– Thân cận xứ
– An lạc hạnh
– Phát đại từ bi tâm
- Hành xứlà những việc làm hàng ngày trong cuộc sống. Trong cuộc sống Bồ tát thường vận dụng trí tuệ, tư duy, quán chiếu vạn Pháp trước mắt, để thể nhập “thật tướng” của các Pháp là “vô tướng”. Đối với nền giáo lý liễu nghĩa thượng thừa thậm thâm, Bồ tát tu học, thọ trì, truyền bá không hề nhàm mỏi, không dấy niệm kinh nghi, khéo nhẫn nhục nhu hòa, không chao đảo thối thất trước nghịch cảnh, không nóng vội trước khó khăn. Bồ tát vận dụng căn bản trí quán sát vạn pháp qua cái nhìn trực giác “vô phân biệt”, un đúc thành thứ “Tri kiến vô kiến”, xa lìa tánh “biến kế chấp” thường tình, vượt ra ý thức phân biệt “Tri kiến lập tri”.
- Thân cận xứlà tiêu chuẩn qui ước của Bồ tát, của Pháp sư Pháp Hoa trên con đường tự độ hóa tha. Thân cận xứ có hai: một là thân cận. Hai là không thân cận.
* Nên thân cận là chỗ mà Bồ tát có thể thân cận và những việc mà Bồ tát nên làm. Nói rõ ra là Bồ tát nên luôn luôn quán niệm tư duy: “Nhất thiết Pháp không”. “Nhất thiết Pháp như thật tướng”. Bồ tát nhận thức rằng: tất cả pháp từ xưa đến nay rời ngoài ngôn ngữ, vượt ra văn tự, tuyệt đường nghĩ ngợi so lường, rốt ráo bình đẳng, thanh tịnh bản nhiên
“…Chưa từng có một pháp
Không do nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Không pháp nào chẳng không”.
Bồ tát thường quán sát vạn pháp với cái tánh Như thị của chính nó. Rằng:
“Tướng của nó như vậy”
“Tánh của nó như vậy”
“Tướng của nó như vậy”
“Thể của nó như vậy”
“Tác của nó như vậy”
“Lực của nó như vậy”
“Nhơn của nó như vậy”
“Duyên của nó như vậy”
“Quả của nó như vậy”
“Báo của nó như vậy”
Và trước sau, từ đầu đến cuối nó vốn “như vậy“.
Đó là những chỗ nên thân cận của Bồ tát.
* Không nên thân cận là những chỗ, những người và những việc mà Bồ tát nên tránh:
– Không nên thân cận người có quyền thế (vua, con vua, các quan lớn, quan nhỏ).
– Không nên thân cận với những bọn Phạm chí hảo hán, bọn Ni kiền tử chủ trương lỏa hình).
– Không nên thân cận hàng văn nhân, thi sĩ không lành mạnh.
– Không nên thân cận với hạng ngoại đạo “thuận thế” và “nghịch thế”.
– Không nên thân cận những người tà thuật, biến hóa huyển hoặc.
– Không nên thân cận những người chỉ mong cầu quả vị Thanh Văn (Tiểu căn, tiểu trí, tự độ)
– Không nên thân cận với hàng quả nữ, xử nữ và tiểu nữ.
– Không nên thân cận với trẻ nít và sa di ít tuổi.
Trường hợp chẳng đặng đừng, phải tiếp xúc với thân cận với những người trên, vì giảng nói kinh pháp cho họ nghe, lòng đừng hy vọng cậy trông nơi họ một điều gì.
- An lạc hạnh:Bồ tát trì kinh Pháp Hoa phải giữ tâm khinh an, thanh thoát, hoan hỉ trong lúc giảng nói, định tĩnh khi thọ trì đọc tụng và tự cảnh tĩnh!
– Không nói lỗi lầm của người khác và của kinh điển.
– Không khinh khi ngạo mạn với những người tu hành khác.
– Không sanh tâm oán thù hiềm khích với mọi người.
– Không chê bai hạnh tu của hàng Thanh Văn, Duyên Giác khiến cho mất niềm tin trên đường tiến lên chánh đạo.
– Nếu có người vấn nạn không giải đáp bằng pháp Tiểu thừa, phải hướng dẫn họ pháp Đại thừa, chỉ cho họ đi vào con đường “Nhất thiết chủng trí”. Đối với tất cả chúng sanh khởi lòng đại bi. Với chư Như Lai sanh lòng kính trọng như đấng cha lành. Với Bồ tát tôn kính như Thầy. Nên khởi lòng cung kính cúng dường Bồ tát trong mười phương.
Bồ tát thực hiện đầy đủ pháp “an lạc” thứ ba nầy, khi thuyết giảng kinh người nghe không ngờ vực hoang mang. Đại chúng sẽ hoan hỉ tiếp thu lời kinh ý Phật, lãnh hội nắm giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ biên chép và khuyến khích nhiều người cùng thọ trì, đọc tụng, biên chép để lưu bố rộng nhiều.
- Phát khởi tâm Đại từ bi:
Bồ tát “trì” kinh Pháp Hoa vào thời mạt pháp, đối với hạng xuất gia hay tại gia nên phát khởi lòng đại bi. Đối với hạng người không phải Bồ tát, nên sanh lòng đại bi. Bồ tát nên nghĩ rằng: “Như Lai vô số phương tiện tùy nghi nói pháp, thế mà họ không biết, không nghe, không tỉnh ngộ, không hiểu, không tin, không học hỏi thật là mất lợi rất nhiều. Dù vậy ngày thành Phật, ta sẽ vận dụng sức trí tuệ dẫn dắt họ vào an trụ nơi pháp Đại thừa của Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa.
Đây là pháp “an lạc” thứ tư của Bồ tát.
Sau Như Lai diệt độ, Bồ tát thành tựu viên mãn “An lạc hạnh” thì lúc thuyết kinh sẽ không phạm phải sai lầm, người nghe sẽ đẹp lòng mà cung kính, chư thiên hoan hỉ hộ vệ cho.
* Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, ở vô lượng cõi nước chưa hề nghe được tên kinh, còn nói chi việc thấy kinh và đọc tụng thọ trì. Ví như Đại quốc vương, sai binh tướng xuất quân dẹp giặc, dẹp giặc xong, để thưởng công cho tướng sĩ ba quân nhà vua có thể cấp cho nhà cửa, ruộng vườn y phục, vàng bạc, ngựa xe v.v..nhưng không bao giờ cho viên minh châu trên mão của nhà vua. Cho đến khi chiến sĩ lập được chiến công vô cùng hiển hách, nhà vua lúc bấy giờ mới đem viên minh châu trên mão của mình mà ban tặng. Đấy là một sự kiện cả hoàng tộc và thần dân kinh dị sững sờ. Như Lai cũng vậy. Nhờ sức mạnh thiền định và trí tuệ, Như Lai làm “vua nước pháp điều phục và chế ngự ba cõi vì hàng phục ma quân, Như Lai dùng Hiền, Thánh làm tướng binh để đánh dẹp. Với các bậc hữu công trong trận chiến, Pháp Vương Như Lai ban cho của báu. Thiền định, giải thoát, căn, lực, vô lậu pháp và cả thành đô Niết bàn. Với ngần ấy “Thánh Tài” mọi người rất bằng lòng và hoan hỉ. Như Lai chưa vì họ mà nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Cho đến khi thấy đội quân Hiền, Thánh đã lập được công to oanh liệt, quét sạch bọn ma quân ngũ ấm, ma phiền não, ma thiên và ma tử; triệt tiêu tam độc, ra khỏi ba cõi. Bấy giờ Như Lai vui mừng, mới đem kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa ra mà trao dạy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là tạng bí yếu của Như Lai. Đối với kinh, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là “thừa tối thượng”.
*****
PHẨM 15
TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT
Lúc bấy giờ, các Bồ tát, nguyên từ các nước phương khác lại, đông hơn cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng, đồng đứng dậy chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Thế Tôn nhận lời, chúng con nguyện, sau khi Phật diệt độ, sẽ rộng nói kinh Pháp Hoa ở thế giới Ta bà, để gia tăng tinh tấn và hộ trì những người đọc tụng, sao chép, cúng dường kinh này”.
Phật đáp: “Thôi khỏi. Này Thiện nam tử! Không cần các con hộ trì kinh nầy. Vì sao ? Vì thế giới Ta bà của ta tự có Bồ tát đông như cát của sáu muôn sông Hằng. Những Bồ tát và quyến thuộc ấy, sau khi ta diệt độ, sẽ có khả năng giữ gìn, đọc tụng, rộng nói kinh này”.
Lúc Phật nói lời này, trong ba ngàn đại thiên quốc độ ở thế giới Ta bà, đất đều rung nứt, và từ trong lòng đất, vô lượng ngàn muôn ức Bồ tát đồng thời vọt lên. Các Bồ tát ấy, thân như vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, sáng ánh khôn lường, trước kia trú trong hư không của chỗ thấp nhất ở thế giới Ta bà, nay nghe tiếng của Phật Thích Ca, nên từ chỗ thấp ấy mà xuất hiện đến. Mỗi mỗi Bồ tát đều là bậc thủ lãnh dẫn đường cho đại chúng và mỗi vị đều có hoặc sáu, hoặc năm, bốn, ba, hai, một muôn hằng sa quyến thuộc, hoặc một hằng hà sa, nửa hằng sa, một phần hằng sa hay một phần trong ngàn ức na do tha phần hằng sa, hoặc từ ngàn muôn ức na do tha sụt lần xuống cho tới một muôn, một ngàn, một trăm, mười, năm, bốn, ba, hai, một quyến thuộc đệ tử. Lại cũng có những Bồ tát chỉ có một mình, thích hạnh “viễn ly”. Tất cả các Bồ tát ấy đông vô số kể.
Từ dưới đất vọt lên rồi, Các Bồ tát ấy đều đến ngọn tháp bảy báu nhiệm mầu trong hư không, là chỗ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca đang ngự, vập đầu xuống chân làm lễ, rồi lại đến tòa sư tử, dưới cột báu, chỗ Phật ngồi mà làm lễ. Xong, các vị đi quanh bên mặt Phật ba vòng, rồi chấp tay chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Từ lúc các Bồ tát xuất hiện cho đến khi làm lễ xưng tán Phật, một khoảng thời gian trôi qua, lâu năm mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ đức Thích Ca ngồi yên nín lặng, bốn hạng đệ tử cũng đều nín lặng. Nhờ sức thần Phật, đại chúng thấy 50 tiểu kiếp trôi qua như nửa ngày. Cùng một lúc và cũng nhờ sức thần Phật, bốn chúng thấy Bồ tát đầy khắp hư không và vô lượng ngàn muôn ức quốc độ.
Trong số Bồ tát ấy, có bốn vị đứng đầu:
- Thượng hạnh
2. Vô biên hạnh
3. Tịnh hạnh
4. An lập hạnh.
Đồng chấp tay nhìn đức Thích Ca, bốn vị kính hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có được ít bệnh, ít buồn và được an vui không ? Những người đáng độ, có thọ giáo dễ không ? Họ không có làm gì Thế Tôn mệt nhọc chứ ?”
Thế Tôn nói: Đúng thế! Đúng thế! Này các thiện nam tử, Như Lai an vui, ít bệnh, ít buồn, các hàng chúng sanh dễ mà hóa độ, không có mệt nhọc. Tại sao thế ? Vì những chúng sanh ấy, từ trước đến nay, đời đời thường được ta hóa độ cho và chính họ cũng đã cung kính tôn trọng chư Phật trong thời quá khứ và trồng các gốc lành. Các chúng sanh ấy, thấy thân ta, nghe tiếng ta nói, là liền tin lãnh và nhập vào tuệ Phật, trừ những người trước đã tu tập theo Tiểu thừa. Đối với hạng này, ta cũng sẽ khiến cho nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa và đi vào tuệ Phật.
Lúc bấy giờ Bồ tát Di Lặc cùng tám ngàn hằng sa Bồ tát trong pháp hội đều thầm lấy làm lạ việc vô số Bồ tát đã từ đất vọt lên. Muốn giải nghi cho tất cả và cho riêng mình, Bồ tát Di Lặc bạch Phật: “Nguyện Thế Tôn cho chúng con biết, vô lượng Bồ tát này từ đâu mà đến và nhóm họp để làm gì ?Ai đã thuyết pháp giáo hóa cho các vị ? Các vị đã theo ai mà pháp tâm, đã thọ trì và thực hành kinh điển thế nào ? Lại tu tập Phật đạo nào mà sức trí thần thông to lớn như thế ? Bạch Thế Tôn, chúng con chưa từng thấy một việc như vậy. Con thường đi qua nhiều nước, gặp gỡ nhiều người, chưa hề biết một vị trong số Bồ tát ấy. Vậy kính xin Thế Tôn nói cho con biết các Bồ tát ấy ở nước nào đến mà hốt nhiên từ đất vọt lên”.
Cùng lúc ấy, các phân thân Phật Thích Ca từ vô lượng muôn ngàn ức cõi khác đồng đến ngồi xếp bằng trên tòa sư tử, dưới các cội cây báu trong tám phương. Những thị giả của các phân thân cùng bạch hỏi về lai lịch của các Bồ tát từ đất vọt lên. Chư phân thân Phật đáp: “Bồ tát Di Lặc đã hỏi Phật Thích Ca. Phật sẽ đáp. Vậy hãy chờ!.
Khi ấy Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ tát Di Lặc: “Hay thay lời hỏi của Di Lặc! Ta sẽ tuyên bày trí tuệ, thần thông, sức mạnh và uy thế của chư Phật, vậy hãy một lòng tinh tấn nghe ta nói”.
Sau khi nói một bài kệ lập lại lời vừa nói, Thế Tôn kêu Bồ tát Di Lặc nói: Những Bồ tát đông vô số kể và từ đất vọt lên, đều do ta giáo hóa chỉ dẫn, sau khi ta đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả đều là bậc đã điều phục tâm mình, lòng sanh ý đạo, và ở trong hư không phía dưới thế giới Ta bà. Tất cả đã từng đọc tụng thông suốt kinh điển, phân biệt trong chỗ nghĩ suy và sửa cho ngay thẳng những nhớ tưởng của mình. Này Di Lặc, các Bồ tát ấy không thích ở chỗ đông người ồn ào, mà thường ưa ở nơi vắng lặng, siêng tu tinh tấn, chưa hề ngơi nghỉ, lại cũng không dừng bước ở cấp Nhân, Thiên mà thường thích được trí tuệ thâm sâu, không còn vướng phải một chướng ngại nào. Lại cũng thường vui nơi pháp Phật, một lòng tinh tấn cầu tuệ Vô Thượng.
Bồ tát Di Lặc và vô số Bồ tát, lòng sanh nghi hoặc, tự hỏi: “Làm thế nào trong khoảng thời gian ngắn mà Thế Tôn giáo hóa được một số Bồ tát đông như thế ?”. Nghĩ xong bèn bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, từ ngày còn là Thế tử bỏ cung điện ra đi rồi đến khi ngồi dưới cội bồ đề đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, từ ấy đến nay, vừa hơn bốn mươi năm, vậy làm thế nào trong khoảng thời gian ngắn ấy Thế Tôn lại giáo hóa cho vô lượng vô biên Bồ tát ấy được ? Vì muốn thành tựu như Bồ tát ấy phải là người trong ngàn muôn ức kiếp, trồng các căn lành ở vô lượng vô biên nước Phật và thường tu phạm hạnh. Thế Tôn thì thành đạo đến nay chưa bao lâu, các Bồ tát kia thì phải tu hành trong vô lượng kiếp mới được thần thông lớn như vậy. Thế thì làm sao hiểu được câu chuyện cha trẻ con già nầy ? Riêng chúng con thì một lòng tin Phật, vì Phật không bao giờ nói ngoa, nhưng các Bồ tát mới phát tâm tu hành, sau Phật diệt độ, có thể không tin lời Phật dạy. Vậy kính xin Thế Tôn giải nghi cho hàng mới phát tâm này, để họ khỏi phải đọa vào nẻo ác.
THÂM NGHĨA
Để được sáng nghĩa hơn, ta có thể gọi tiểu đề của phẩm kinh này là Bồ tát tùng địa dũng xuất. Nội dung phẩm kinh nói về sự kiện lạ lùng: Bồ tát từ dưới đất hiện ra.
Chữ địa ở đây nên hiểu là tâm địa, là cõi đất tâm của chính con người. Bồ tát bổn nguyện, bổn hạnh, bổn thệ đều phát xuất từ tâm địa mà ra, chớ không do ở tha nhân hay tha phương mà đến.
Phật từ chối hảo ý giúp đỡ của chư Bồ tát ở mười phương, đông hơn số cát của tám con sông Hằng. Điều đó cho thấy ý nghĩa: ” Cầu người không bằng cầu ở mình”. Tha lực sẽ vô ích, nếu không có sự cố gắng của tự lực.
Phật giới thiệu cõi Ta bà có Bồ tát đông bằng số cát của sáu muôn sông hằng và vô số quyến thuộc đủ sức hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa, sau Phật diệt độ. Điều này dạy cho chúng ta hãy dựa vào tự lực phát huy cái khả năng trí tuệ nghị lực của chính ta. Tự lực là chánh nhơn, quyết định để cải tạo và xây dựng chơn hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Ở đây cho sự giải thoát giác ngộ của mình. Sự giúp đỡ của tha nhân dù nhiệt thành đến đâu vẫn là hữu hạn. Chỉ có sự cố gắng của sức mình mới đạt đến mục đích, đáp ứng thỏa mãn trọn vẹn ý chí hoài bảo của mình. Con số Bồ tát tình nguyện giúp đỡ hộ trì chỉ ngang số cát của tám con sông Hằng thôi. Trong khi đó, Phật cho biết số Bồ tát tự có ở cõi Ta bà nhiều như số cát của sáu muôn sông Hằng và mỗi Bồ tát còn có thêm vô số quyến thuộc. Cán cân lực lượng nghiêng về bên tự lực gấp mấy vạn lần.
Nếu tự mê mờ không biết mình có tâm Bồ tát thì hạnh Bồ tát dù có sẵn ở nôi tâm, cũng không có môi trường xuất hiện. Nếu có tự giác, biết mình có tâm Bồ tát, thì Bồ tát hạnh tùy đó mà xuất hiện ra. Đó là chỗ kinh nói: Phật vừa giới thiệu cõi Ta Bà có Bồ tát thì Bồ tát từ Đất hàng hàng xuất hiện.
“Kim sanh tiệm tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhơn” của Tổ Quy Sơn dạy, phát xuất từ ý kinh nầy. Đừng mơ mộng viễn vông. Thực tế, bạn phải định đoạt số phận bạn, chớ không do ai khác. Bạn phải phát huy cái tinh thần độc lập tự do ở trong bạn, cái Phật tánh vốn có, cái tự tánh Niết bàn ở trong bạn. Nó là của chính bạn đó.
– Có độc lập tự do về kinh tế, chính trị mới có chơn hạnh phúc cho một dân tộc.
– Có độc lập tự do về kiến trúc và tài chánh, mới có chơn hạnh phúc cho vợ chồng trẻ xây tổ ấm cho một gia đình.
– Có độc lập tự do trong tự lực cánh sinh, mới có chơn hạnh phúc cho người có chí vá trời lấp biển.
– Có độc lập tự do trong giác ngộ giải thoát, mới có chơn hạnh phúc cho người quyết tâm đi con đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hai mươi lăm thế kỷ trước, Phật dạy: Hãy trông cậy vào sức mình là chính, đừng trông cậy ở nơi ai khác.
Vàng 24 là thứ vàng trọn vẹn chất vàng. Nó không thể là đồng, là thau và không bị “oxýt hóa” cháy ngầm như các kim loại khác. Mượn tánh chân thường bất hoại của vàng ròng để ví đức tánh tự giác sẵn có, Bồ tát tâm, Bồ tát hạnh sẵn có ở tâm địa mọi người. Đức tánh đó, khi mê nó không mất đi đâu, khi ngộ cũng không phải nó mới có. Nó là đức bất hoại chân thường như vàng ròng kia vậy. Do vậy mà thân Phật và thân Bồ tát là “thân kim sắc”.
Có người hỏi: Thế thì Bồ tát tâm, Bồ tát hạnh, là đức tánh vốn có của con người. Vậy sao từ trước cũng như nay, tôi vẫn là một chúng sanh đau khổ ?
– Đáp rằng: vàng vốn có ở trong quặng, mà chưa phát hiện quặng vàng. Phát hiện quặng vàng rồi cần phải nấu lọc, mới có được vàng y tinh chất. Không có hai điều kiện trên đó, thì vàng có cũng như không có vậy.
Bồ tát xuất hiện, công việc trước tiên đến viếng Tháp và ra mắt hai Như Lai: một quá khứ và một hiện tại. Tiêu biểu ý nghĩa: Rằng người phát tâm hành Bồ tát hạnh. Công việc trước hết quay về với thỉ giác và bản giác của chính mình, cũng có nghĩa là quay về với Phật pháp thường trụ ở trong khoảng không gian vô tận và thời gian vô cùng, quay về chân lý vậy.
Các Bồ tát lễ tháp, ra mắt hai Như Lai và các phân thân Phật mười phương nhóm họp, nói lên ý nghĩa: Bồ tát là Nhân địa. Nhân địa luôn luôn hướng lên quả địa. Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là cái quả mà chư Bồ tát cần đạt đến. Ngoài ra, Bồ tát không mong cầu gì khác, mong cầu khác là sai mục tiêu nguy hiểm đó.
Thời gian nửa ngày, năm mươi tiểu kiếp, năm mươi tiểu kiếp chừng nửa ngày, xét cho tột lý, nó không còn là vấn đề giải thích “vì sao ?”. Bởi lẽ sự kiện ấy diễn ra không đặt trong bối cảnh hiện tượng vật chất thì dựa vào đâu để ấn định tiêu chuẩn thời gian! Chi tiết đoạn kinh này, xác định rõ cái lý: Phật và Bồ tát được nêu trong phẩm “Bồ tát tùng địa dũng xuất” là những đức tính tượng trưng cho sự giác ngộ. Sự giác ngộ đó, nhờ sức thần Phật mà được thấy, được nghe, chứ không phải ở nơi cảnh thực. Do đó, ta có thể hiểu: Phật là Phật tâm. Bồ tát là Bồ tát tâm vốn có ở nơi đất tâm của mọi người vậy.
Nói đến Bồ tát là nói đến hạnh, nói đến sự thể hiện của việc làm tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Vì hạnh tức là hành vậy. Không làm một việc làm nào là không có hạnh. Không hạnh, ý nghĩa Bồ tát không có, dù đã có thọ giới Bồ tát rồi. Do đó, Bồ tát dù nhiều vô lượng vô số, nhưng để có thực nghĩa, Bồ tát phải được thể hiện qua những hạnh sau đây:
- Thượng hạnh: Hạnhhướng thượng. Phải thường tư duy và hành động trong chiều hướng trong sáng, cao đẹp hướng lên giải thoát, giác ngộ hoàn toàn.
- Tịnh hạnh. Hạnhthanh tịnh. Luôn luôn phát triển mặt tích cực: Thấy biết chân chánh, nói năng chân chánh, hành động chân chánh, siêng năng chân chánh, định tâm chân chánh.
Hạn chế mặt tiêu cực! tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Phẩn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, điệu cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Những vô minh phiền não này nên cải tạo hòa bình có lợi hơn là dụng tâm thô bạo đàn áp diệt trừ:
“Ngũ uẩn phù hư không khứ lai
Tam độc thuỷ bào hư xuất một…”
Ngũ uẩn thân, vốn đã huyển hư, vô minh phiền não lại càng huyển hư hơn nữa.
- Vô biên hạnh: Hạnhrộng lớn. Lấy việc hoằng truyền chánh pháp làm việc nhà, lấy việc lợi ích chúng sanh làm sự nghiệp. Vượt ra sự ràng buộc của sự ích kỷ hẹp hòi. Phá vỡ tường thành kiên cố “chấp ngã, chấp pháp”.
- An lập hạnh: Hạnhđứng vững. Lấy giải thoát giác ngộ làm mục tiêu. Lấy Văn, tư, tu làm phương tiện. Chống bát phong làm hành động. Dĩ từ bi vi thất. Nhu hòa nhẫn nhục vi y. Nhất thiết pháp không vi tòa.
Như lai thì bao giờ cũng an vui và ít bệnh, ít não, Như Lai đã xác định với Bồ tát như thế. Vì, Như Lai là bản thể như như của vạn pháp, dù tùy duyên mà vẫn thường hằng bất biến.
Có chúng sanh nào mà chẳng sống ở tâm Như Lai của mình. Như Lai có lúc nào chẳng gần gũi giáo hóa chúng sanh khi chúng sanh chưa thành được Phật.
Chúng sanh dù có si mê đen tối đến đâu, cũng có những phút giây tỉnh thức. Dù làm nhiều tội ác nhưng rồi cũng có khi làm được ít nhiều việc thiện. Thế là đã trồng căn lành cội đức ở các Phật quá khứ rồi. Thế nên Như Lai cũng chẳng khó lắm trong việc giáo hóa chúng sanh.
Dù ai có hẹp hòi tiêu cực, một khi giác ngộ cũng sẽ vượt lên sống đời sống tích cực vô ngã vị tha được. Kinh nói: Những người Tiểu thừa Phật cũng khiến cho họ nghe học kinh điển Đại thừa.
Những yếu tố nào làm nên thành quả Bồ tát ở cõi Ta bà ?
– Phật dạy: Sở dĩ Bồ tát cõi Ta bà thành tựu được thắng quả như thế là do:
- Bồ tát trụ ở cõi hư không, phía dưới cõi Ta bà. Trụ giữa hư không, có nghĩa là không trụ vào một pháp hữu vi nào.
- Đọc kinh điển nhiều, suy nghĩ kỹ, nghĩ tưởng chân chánh.
- Không thích ở chỗ đông, nói nhiều, nói nhảm, nói thị phi vô ích.
- Thích chỗ tịch tĩnh, thường tinh tấn, không giải đãi pháp lành.
- Ham trí tuệ rộng sâu, Không thích nương người, trời.
- Thường ham pháp Phật, cầu tuệ vô thượng.
Qua các kinh luận, Bồ tát Di Lặc là đức hiệu được biểu trưng cho Thức. Khác hơn Bồ tát Văn Thù biểu trưng cho Trí. Nhận thức sự kiện bằng thức thì không thể hiểu được sự kiện: Bồ tát từ đất xuất hiện ra.
Nhận thức sự kiện bằng thức thì Phật Thích Ca thành đạo mới hơn 40 năm, làm gì có thể giáo hóa hàng Bồ tát có thành tích tu tập và phước đức tương đương với Tam a tăng kỳ! Vì thế, nẩy sanh ý nghĩ: “Con già cha trẻ” cầu Phật nói rõ nguồn cơn…
Để tháo gỡ mối nghi ngờ, Phật nói rõ về tuổi thọ của Như Lai ở phẩm Như Lai thọ lượng, thứ 16 tiếp.
*****
PHẨM 16
NHƯ LAI THỌ LƯỢNG
Bấy giờ đức Phật Thích Ca bảo các Bồ tát và Đại chúng: “Các ngươi hãy tin lời chân thật của Như Lai! Nói xong, Phật lập lại hai lần câu nói đó.
Đứng đầu các Bồ tát và đại chúng, Bồ tát Di Lặc ba phen chấp tay bạch Phật: “Thế Tôn, xin cứ nói, chúng con sẽ tin lãnh lời Phật”.
Thấy hàng Bồ tát đã ba phen cầu thỉnh, đức Phật bèn nói: “Hãy nghe đúng như sự thật, sức mạnh thần thông bí mật của Như Lai. Tất cả thế gian, trời người cùng A tu la đều nói rằng Phật Thích Ca, rời cung họ Thích, đến thành Già da cách đó không xa, ngồi nơi đạo tràng, chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng nầy các thiện nam tử, ta từ thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp đã trôi qua. Giả sử có người đem năm trăm ngàn muôn ức na do tha a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới, tán nhỏ thành bụi, rồi đem hạt bụi ấy đặc nơi hướng đông, sau khi vượt qua năm trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ nước. Đặt xong, trở lại lấy một hạt khác và cũng đem đặt ở hướng đông y như trước, cho đến khi nào số bụi nói trên bị dời đi hết. Này các thiện nam tử, ý các ngươi thế nào ? Có thể tưởng tượng, đếm, tính, số thế giới trên đó các hạt bụi được đặt lên không ?”
Bồ tát Di Lặc và tất cả đều bạch: “Thế Tôn, các thế giới ấy vô lượng vô biên, làm sao đếm tính cho được, cũng không thể dùng sức tâm mà tưởng tượng được. Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác đến bậc “vô lậu” A La Hớn còn không thể suy tưởng được con số thế giới ấy, huống chi chúng con mới là “a bệ bạt trí” thì làm sao biết được”.
Đức Phật nói: “Này các thiện nam tử, ta sẽ nói rạch ròi cho các ngươi nghe. Cứ kể mỗi hạt bụi là một kiếp, thì từ ta thành Phật đến nay, số kiếp trôi qua còn nhiều hơn số trăm ngàn muôn ức na do tha a tăng kỳ hạt bụi ấy. Từ ấy tới nay, ta luôn ở tại thế giới Ta bà thuyết pháp, giáo hóa, lại cũng ở nơi khác tại ở trăm ngàn muôn ức na do tha nước, dắt dẫn chúng sanh một cách ích lợi.
Này các thiện nam tử, trong khoảng thời gian đó, ta có nói Phật Nhiên Đăng v.v…và cũng nói có chư Phật nhập Niết bàn, nhưng tất cả đều là phương tiện mà phân biệt nói có thành Phật, có nhập Niết bàn.
Này các thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta ở, ta lấy Phật nhãn xem coi các căn của chúng sanh ấy nhụt bén thế nào, rồi theo đó mà độ. Mỗi nơi, ta tự xưng với những danh hiệu bất đồng và cho biết tuổi tác lớn nhỏ cũng khác, lại nói sẽ nhập Niết bàn và còn dùng nhiều phương tiện khác để nói bày pháp vi diệu hầu làm cho chúng sanh phát tâm hoan hỉ.
Này các thiện nam tử, vì thấy chúng sanh thích nơi “tiểu pháp”, đức mỏng, phiền não dày cho nên Như Lai phải vì những hạng ấy mà nói rằng ta lúc còn trẻ xuất gia, rồi đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thật ra từ ta thành Phật đến nay, lâu hơn thời gian ấy nhiều. Đây chẳng qua vì phương tiện mà nói như vậy thôi, để giáo hóa chúng sanh và khiến họ nhập Phật đạo.
Này các thiện nam tử, kinh điển của Như Lai nói ra, đều nhằm chỗ độ thoát chúng sanh. Khi thì nói về thân mình, khi thì nói về thân người khác, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người khác, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người khác, nhưng dầu trong trường hợp nào, tất cả lời của Như Lai đều chân thực, chẳng dối. Tại sao vậy? Vì đúng như thật, Như Lai thấy tướng của ba cõi không có sanh tử, không lui, không xuất, không ở đời mà cũng không diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng phải ba cõi mà có ba cõi. Các việc như thế, Như Lai thấy rõ, không bao giờ có sự sai lầm. Nhưng vì chúng sanh tâm tánh khác nhau, cho nên phải dùng nhân duyên, thí dụ, lời nói khác nhau để thuyết pháp khiến họ sanh căn lành. Những việc Phật làm (Phật sự) chưa từng dừng bỏ. Như vậy, từ ta thành Phật đến nay, thật rất lâu xa, còn thọ mạng thì dài vô lượng a tăng kỳ kiếp và luôn luôn thường trú bất diệt.
Này các thiện nam tử, những việc làm theo Bồ tát đạo của ta, đến nay chưa phải là hết, vì vậy, thọ mạng của ta còn dài gấp mấy lần con số nói trên. Tuy nhiên dầu chưa thực diệt độ, ta vẫn nói là sẽ diệt độ, để làm phương tiện giáo hóa chúng sanh. Tại sao vậy ? Vì nếu Phật ở lâu tại thế thì hạng đức mỏng không chịu trồng căn lành, cứ giữ mãi thói bần cùng, hạ tiện, tham đắm năm món dục lạc (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ). Đã mắc vào lưới nhớ tưởng vọng kiến mà nếu thấy Như Lai ở đây mãi mãi không diệt độ, thì làm sao không sanh kiêu mạn, phóng tâm, giải đãi, và như vậy thì không tưởng đến và cũng sanh lòng cung kính Phật như một bậc khó gặp.
“Này các Tỳ kheo, nên biết chư Phật xuất thế là điều khó gặp. Vì sao ? Những người đức mỏng trải qua vô lượng trăm ngàn ức kiếp, có khi gặp Phật mà có khi cũng không gặp. Vì vậy cho nên ta nói Như Lai khó thấy. Nghe lời nói nầy, chúng sanh tất nghĩ đến lẽ ngàn năm một thuở mà sanh lòng luyến mộ khao khát mà trồng căn lành. Bởi cớ, tuy không thực diệt độ, mà vẫn nói là diệt độ.
Lại nữa, này thiện nam tử, Pháp của chư Phật Như Lai cũng vậy, đều chân thực không hư dối và chỉ có một mục đích là đưa dắt chúng sanh. Thí dụ có một ông thầy thuốc giỏi, trí tuệ sáng suốt, phương dược khéo luyện, bệnh nào cũng trị hết, nhà con cái rất đông. Gặp lúc ông có việc phải đi ra nước ngoài, các con ở nhà uống phải thuốc độc, cơn điên nổi lên, té nằm dưới đất. Ngay lúc đó ông cha về đến nhà. Các con của ông, có đứa mất tâm, có đứa còn tâm, nhưng khi xa thấy cha về, tất cả đều vui mừng quỳ lạy, chào hỏi và thưa: “Rằng ngu si nên uống phải độc dược, xin cha cứu tử”. Cha thấy con khổ não như vậy, bèn theo các phương đã kinh nghiệm mà chế thuốc, màu sắc hương vị đều tốt đẹp và bảo các con uống: “Đây là lương dược, mùi ngon, sắc đẹp, các con hãy uống đi thì sẽ mau trừ khổ não và bao nhiêu khổ hoạn sẽ không tái phục”. Những đứa không mất tâm nghe xong liền uống và được hết bệnh. Còn những đứa mất tâm, tuy thấy cha cũng vui mừng, cầu xin chữa bệnh, nhưng thuốc thì không chịu uống. Vì sao ? Vì bị độc thấm sâu, đã mất tâm trí rồi, cho nên thuốc ngon, sắc đẹp lại cho là không ngon không đẹp. Ông cha thấy vậy mới suy nghĩ: Những đứa con nầy mới đáng thương, thấy cha vui mừng cầu cứu, nhưng khi cho thuốc lại không chịu uống. Ấy cũng vì bị chất độc cho nên tâm trí đều điên đảo. Vậy phải dùng chước mới được. Nghĩ xong ông mới nói rằng: “Cha nay già yếu, sắp chết nay mai, có mấy món thuốc hay để lại, các con nên giữ mà dùng, khỏi sợ lầm thuốc dở. Nói rồi ông bỏ nhà ra đi qua nước khác và cho người về báo tin ông đã chết. Hay tin dữ, các con mất tâm của ông mới nghĩ, cha lành đã chết thì nay còn ai đâu mà cứu hộ cho mình! Vì thường nhớ thương như thế, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc của cha để lại là hay, bèn lấy ra dùng, bao nhiêu độc bệnh đều lành hết. Nghe tin nầy, ông cha trở về xứ cho con cái thấy mặt.
“Này thiện nam tử, các ngươi nghĩ thế nào ? Nói dối như ông lương y kia, có phải là một tội không ?”
“Bạch Thế Tôn, không”.
Đức Phật nói: “Ta cũng thế. Từ thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp, nhưng vì muốn cứu độ chúng sanh, cho nên phương tiện mà mà nói là sẽ diệt độ. Như vậy, đối với sự thật, cũng không thể nói rằng ta đã phạm tội nói sai nói dối”.
THÂM NGHĨA
Lời nói của Như Lai quyết định phải là lời nói chắc thật. Vậy mà trước khi nói về Như Lai thọ lượng, Phật phải ba lần nhắc nhở: “Bồ tát các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Bởi vì nói về số lượng của tuổi thọ của Như Lai là một sự kiện khó tin đối với thường tình và vì vậy mà trở thành một sự kiện vô cùng quan trọng.
Nói về số lượng tuổi thọ của Như Lai cũng có nghĩa là nói đến sự thường hằng vĩnh cửu của Pháp thân Phật, của Như Lai Viên Giác Diệu Tâm vậy. Còn Thích Ca Mâu Ni là ứng thân Phật, thọ lượng đó không tương quan gì với Như Lai thọ lượng ở phẩm kinh nầy.
Một con số vượt ngoài tính đếm, chỉ có thể dùng từ: bất khả thuyết, bất khả thuyết, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp để nói. Thế mà, Phật nói: Từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu hơn số đó trăm ngàn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp. Từ đó đến nay, ta thường ở cõi Ta bà nói pháp giáo hóa và cũng ở trong trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ cõi nước khác dắt dẫn lợi ích chúng sanh. Ở chặng giữa, ta nói Phật Nhiên Đăng v.v….xuất thế, và các Phật Niết bàn….đó là ta dùng phương tiện phân biệt mà nói như vậy.
Đúng như định nghĩa ở kinh Bát Nhã Kim Cang: Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhơn ngôn: Như Lai nhược lai, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhơn bất năng giải ngã sở thuyết nghĩa. Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai: Như Lai là bản thể chơn như của các pháp. Nếu ai nói Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, người đó không hiểu gì về Như Lai cả. Như Lai đi không chỗ từ, đến không chỗ tới. Như Lai vô thỉ vô chung. Phải hiểu Như Lai qua pháp thân thường trụ mà Đa Bảo Phật được tượng trưng Pháp thân Như Lai thường trụ về mặt thời gian. Vô lượng vô số phân thân Phật Thích Ca khắp hằng hà sa cõi nước mười phương, tượng trưng Pháp thân Phật thường trụ về mặt không gian vậy.
Với nhận thức thông thường, đại biểu là Bồ tát Di Lặc, chỉ biết Như Lai qua bát tướng thành đạo của Phật Thích Ca cho nên nẩy sanh nghi vấn: “cha trẻ mà con già”. Nhận thức bằng trí, hiểu Như Lai qua Viên giác Diệu Tâm thì “cha không trẻ” mà rất già. Già với một số lượng tuổi thọ không ngôn từ tính đếm được.
Vì chúng sanh ưa pháp nhỏ (tiểu thừa), phước mỏng, tội dày, đáp ứng tâm hiểu biết của chúng sanh, Như Lai nói: Lúc trẻ có xuất gia, rồi được thành đạo chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sự thật, Như Lai dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh mà nói như vậy thôi. Kinh điển của Như Lai nói ra vì độ thoát chúng sanh. Hoặc nói thân mình, Hoặc nói thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người. Lời nói của Như Lai đều thật chẳng dối. Vì Như Lai nhận thức tam giới đúng như thật: không có sanh tử, không vào, không ra cũng không có người đời và người diệt độ. Nó chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy ba cõi. Các việc như thế, Như Lai thấy rõ không sai lầm. Chúng sanh có nhiều căn tánh, nhiều mong muốn, nhiều nết hạnh khác nhau, Như Lai vận dụng nhân duyên, thí dụ, lời lẽ thuyết pháp làm Phật sự rồi nói có xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết bàn. Sự thực từ Như Lai thành Phật đến nay, thật lâu xa, thọ mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.
Như Lai nói: Như Lai sẽ diệt độ là để cho những chúng sanh giải đãi lưu tâm khởi ý tưởng khó gặp, sanh lòng cung kính tinh tấn tu hành cũng như vị lương y cắt thuốc rồi đi, để cho bịnh nhân không ỷ lại nơi thầy mà quý thuốc vậy.
Để tóm lược nghĩa trên, đức Như Lai nói kệ:
Từ ta thành Phật lại
Trải qua các số kiếp
Vô luợng trăm nghìn muôn
A tăng kỳ ức năm
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Đến nay vô lượng kiếp
Vì phổ độ chúng sanh
Phương tiện hiện Niết bàn
Mà thiệt chẳng diệt độ
Thường nơi đời nói pháp
Ta thường ở nơi đây
Dùng các thức thần thông
Khiến chúng sanh điên đảo
Dù gần mà chẳng thấy
Chúng thấy ta diệt độ
Siêng cúng dường xá lợi
Họ thường ôm luyến mộ
Mà sanh tâm phát ngưỡng
Chúng sanh ý chất trực
Đã tin phục nhuyển nhuần
Một lòng muốn thấy Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng
Giờ đây cùng chúng tăng
Đều ra khỏi Linh Thứu
Ta nói với chúng sanh
Thường ở đây chẳng diệt
Vì dùng sức phương tiện
Hiện diệt mà chẳng diệt
…Người chất trực nhu hòa
Có tu các công đức
Thì đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp
…Các ông người có trí
Chớ ở đây sanh nghi
Nên dứt hẵn nghi ngờ
Lời Phật thật không dối
Như lương y chước khéo
Nhằm cứu trị cuồng tử
Thiệt còn mà nói chết
Nhưng không là nói vọng…
*****
PHẨM 17
PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Khi đó, Thế Tôn bảo Bồ tát Di Lặc: “Này A Dật Đa! Lúc ta nói về thọ mạng lâu dài của Như Lai, thì có:
Sáu trăm tám muôn ức na do tha Hằng sa chúng sanh được “Vô sanh pháp nhẫn”.
- Một số Đại Bồ tát ngàn lần gấp đôi được môn “văn trì đà la ni”.
- Một số Đại Bồ tát đông như một thế giới vi trần được “nhạo thuyết vô ngại biện tài”.
- Một số Đại Bồ tát đông như một thế giới vi trần được trăm ngàn muôn ức vô lượng môn “triền đà la ni”
- Một số Đại Bồ tát đông như vi trần của tam thiên đại thiên thế giới chuyển được “pháp luân bất thối”
- Một số Đại Bồ tát đông như vi trần của nhị thiên quốc độ chuyển được “pháp luân thanh tịnh”.
- Một số Đại Bồ tát đông như vi trần của tiểu thiên quốc độ, trong tám đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”
- Một số Đại Bồ tát đông như vi trần của bốn tứ thiên hạ, trong bốn đời tái sanh, sẽ được “Chánh Đẳng Chánh Giác”
- Một số Đại Bồ tát nhiều như vi trần của ba tứ thiên hạ, trong ba đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”
- Một số Đại Bồ tát nhiều như vi trần của hai tứ thiên hạ, trong hai đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”
- Một số Đại Bồ tát nhiều như vi trần của một tứ thiên hạ, trong một đời tái sanh, sẽ được “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”
- Một số chúng sanh nhiều như vi trần của tam thế giới, đều phát tâm “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”
Đức Phật nói xong, một trận mưa hoa báu từ hư không rơi xuống trên vô lượng trăm ngàn muôn ức Phật ngồi trên tòa sư tử, dưới cội cây báu, trên đức Phật Thích Ca và đức Phật Đa Bảo đang ngồi trong tháp bảy báu, và trên tất cả Bồ tát và bốn bộ chúng. Lại có trận mưa hương bột chiên đàn, hương trầm thủy, và trống trời tự vang. Lại có trận mưa thiên y và trên không thòng xuống các thứ chuỗi ngọc, các lò hương báu đốt hương vô giá để cúng dường đại chúng.
Trên mỗi đức Phật có các Bồ tát tay cầm phan lọng, trước sau lên đến trời Phạm thiên, dùng âm thanh vi diệu, ca vô lượng bài kệ tán thán chư Phật.
Khi ấy Bồ tát Di Lặc đứng dậy lễ Phật rồi mói một bài kệ nhắc lại và xưng tụng những lời Phật vừa dạy.
Bồ tát Di Lặc nói kệ xong, Phật nói: “Này A Dật Đa! chúng sanh nào nghe Phật thọ mạng lâu dài như thế mà chỉ sanh được một niệm tin tưởng, thì đặng công đức không thể hạn lượng. Công đức nầy lớn lao cho đến nỗi đem công đức tu 5 Ba la mật đầu (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định) trong 80 muôn ức na do tha kiếp ra so sánh thì trong muôn ức ngàn phần, công đức tu Ba la mật không kịp một. Lại nữa, ai được công đức tin tưởng như trên thì không bao giờ thối bước trên đường dẫn đến Chánh Giác.
Sau khi nói một bài kệ lập lại ý trên, Đức Phật nói tiếp: “Này A Dật Đa! Người nào nghe nói về thọ mạng lâu dài của Phật mà hiểu được cái ý thú trong lời nói đó, thì người ấy được công đức vô lượng, lại có thể phát khởi trí tuệ vô thượng của Như Lai. Huống là người hiểu rộng nghe nhiều về kinh Pháp Hoa, hoặc bảo người nghe, hoặc tự thọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc dùng mọi thứ hương hoa, v.v…cúng dường kinh. Người ấy đặng công đức vô biên, có thể sanh “nhất thiết chủng trí”.
“Này A Dật Đa! Còn thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe ta nói mà sanh lòng tin hiểu chắc về thọ mạng lâu dài của Phật, thì người ấy ắt thấy Phật thường trụ tại Kỳ Xà Quật nói Pháp cho các Đại Bồ tát và Thanh Văn vây quanh nghe. Chẳng những thế, mà còn thấy đất cõi Ta bà bằng lưu ly, mặt liền bằng thẳng, tám nẻo rào bằng dây vàng ròng, bảy cây báu và lâu đài cũng đều bằng bảy báu họp thành, trong số Bồ tát ở. Ai mà quán tưởng được như thế, thì nên biết đó là biểu hiệu của một lòng tin tưởng sâu sắc.
“Lại nữa, sau khi Phật diệt độ, ai nghe kinh nầy mà không chê bai, sanh lòng tùy hỉ, thì đó cũng là biểu hiệu của một lòng tin hiểu sâu chắc. Còn đi đọc tụng, lãnh, giữ kinh này, thì người đó đầu đội Như Lai.
“Này A Dật Đa! Tin hiểu được như thế, thì không cần vì ta mà dựng chùa tháp, cũng không cần cất tăng phường và dùng “tứ sự” cúng dường chúng tăng. Vì sao ? Vì thọ trì đọc, tụng kinh nầy là đã dựng tháp, tạo lập tăng phường, là đã dùng hương hoa, chuỗi ngọc, tràn phan, kỹ nhạc…tán thán chư Phật trong muôn ngàn ức kiếp rồi.
“Này A Dật Đa! Thọ trì, đọc tụng kinh nầy được công đức như thế, hà huống còn tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, thì công đức nầy không còn gì hơn.
“Nếu thọ trì, đọc tụng kinh nầy mà còn tạo tháp, xây dựng tăng phường, cún dường, khen ngợi chúng Thanh văn và Bồ tát, hoặc giải nói kinh Pháp Hoa rồi còn thanh tịnh trì giới nhẫn nhục, quí việc ngồi thiền, tinh tần mạnh mẽ, căn lành trí sáng, thì đó là những người đã đến Đạo tràng, gần ngồi dưới cội cây Đạo để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tới đây, đức Phật nói một bài kệ nhắc lại ý trên.
THÂM NGHĨA
Diệu Pháp Liên Hoa kinh được liệt vào hệ tư tưởng tối thượng thừa trong Phật giáo. Các nhà Phật học uyên thâm còn phê phán: Tư tưởng Pháp Hoa cị trí của nó không những ở vào Đại thừa Viên giáo mà còn siêu viên giáo nữa. Đấy là hệ tư tưởng vòi vọi “Độc diệu thuần viên“. Thế mà tiểu đề của phẩm kinh nầy lại là Phân biệt công đức. Nếu là thức giả, nghe bằng nhĩ căn đượm ướt giáo lý Bát Nhã không tôn, đáng chẳng nghĩ ngợi lắm sao ?
Xin đáp: Phân biệt để không còn gì phân biệt. Phân biệt để chỉ con đường thẳng tắt, để dẫn đến mục đích cứu cánh cuối cùng, để hết đi, hết đến, hết làm, để “rồi” tất cả. Phân biệt công đức ở đây là nhằm mục tiêu đó.
Vậy phân biệt công đức là công đức gì ?
– Công đức về vấn đề Thọ mệnh Như Lai ấy. Phật nói về Thọ mệnh Như Lai, vậy có thể hiểu và tin nổi hay không ? Phẩm phân biệt, phân biệt rằng: Hiểu ít thì lợi nhỏ, hiểu vừa thì lợi vừa, hiểu nhiều lợi lớn, hiểu kỹ quả vị cao, hiểu sâu giải thoát trọn vẹn, hiểu đúng giác ngộ hoàn toàn, thường thọ dụng Phật chất của mình, ở trong đó kinh hành và nằm ngồi trong lòng Phật:
…Phật tử trụ thử địa
Thị tắc Phật thọ dụng
Thường tại ư kỳ trung
Kinh hành cập tọa ngọa…
Sau khi được nghe về thọ mệnh Như Lai, đại chúng tùy căn tánh để thể nhập và phát khởi lòng tin. Kết quả, đức Phật cho biết có:
– Sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh, được vô sanh pháp nhẫn.
– Bội hơn nghìn lần Đại Bồ tát, được môn Văn trì đà la ni.
– Nhiều như vi trần của một thế giới Đại Bồ tát, được nhạo thuyết vô ngại biện tài.
– Nhiều như vi trần của một thế giới Đại Bồ tát, được vô lượng môn đà la ni.
– Nhiều như vi trần của tam thiên đại thiên thế giới Bồ tát, chuyển được pháp luân bất thối.
– Nhiều như vi trần của nhị thiên quốc độ Đại Bồ tát, chuyển được pháp luân thanh tịnh.
– Nhiều như vi trần của tiểu thiên quốc độ Đại Bồ tát, tám đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
– Nhiều như vi trần của bốn tứ thiên hạ Đại Bồ tát, bốn đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
– Nhiều như vi trần của hai tứ thiên hạ Đại Bồ tát, hai đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
– Nhiều như vi trần của một tứ thiên hạ Đại Bồ tát, một đời sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
– Nhiều như vi trần của tám thế giới chúng sanh, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật vừa nêu kết quả lớn lao trên, tức thì một trận mưa hoa, mưa hương báu từ không trung rơi xuống cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật ngồi ở tòa sư tử dưới cội cây báu. Thích Ca và Đa Bảo Như Lai ngồi trong tháp báu, cùng có vô lượng Bồ tát và tứ chúng đông vầy. Các Bồ tát cầm phan lọng, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm vô lượng bài kệ tán thán chư Phật…
Như ta thấy, đại chúng nghe Thọ mệnh Như Lai, tùy tin hiểu, kết quả đã lớn lao. Phật nói lại cái kết quả lớn lao kia, kết quả còn lớn lao hơn nữa. Sự cúng dường: mưa hoa, mưa hương, mưa thiên y, mưa trầm thủy, chiên đàn, chuỗi ngọc, trỗi kỹ nhạc âm thanh tán thán….Cho ta thấy ai nghe hiểu được Như Lai thọ mệnh, người đó sẽ hiểu được Như Lai thường trụ trong thời gian vô tận, không gian vô cùng . Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai không còn là vấn đề “khác ông, khác Phật nữa. Một Phật có đủ ba đời Phật. Ba đời Phật ở trong một Phật. Cho nên một thời cúng dường. Chỉ một thời thôi đủ cả tam thế Phật: Quá (Đa Bảo), Hiện (Thích Ca), Vị lai (Bồ tát và tứ chúng).
Phân biệt công đức để chỉ cho chúng sanh, cho Phật tử về cái nhận thức, cái hiểu, cái tin đúng chánh pháp, đúng chân lý sẽ đem lại kết quả vô cùng to lớn như vậy. Ngoài ra cũng còn những công đức cũng cần phân biệt như sau:
- Công đức của người nghe rồi sanh một niệm tin hiểu.
- Công đức nghe mà hiểu ý thú lời nói của Phật.
- Công đức của người nghe rồi sanh lòng tin sâu hiểu chắc.
- Công đức của người nghe rồi tùy hỉ sau Như Lai diệt độ.
Nghe thọ mệnh Phật mà tin hiểu cũng không thối thất đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Công đức của người tu năm độ trước của lục độ, trải qua vô lượng đời, nhưng so với công đức của người tin hiểu thọ mệnh Như Lai thì không bằng một phần tỷ, cho đến không tỷ lệ được. Tại sao vậy? Tại vì chưa có tuệ. Không có tuệ thì cách Phật còn xa. Còn người tin hiểu Thọ mệnh Như Lai là mầm trí tuệ đã nẩy nở rồi, cho nên công đức lớn.
Nghe Thọ mệnh Như Lai mà hiểu ý thú, người nầy có thể sanh trí tuệ Như Lai vô thượng. Nếu thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, cúng dường kinh, có thể sanh Nhất thiết chủng trí.
– Hiểu thế nào thì được gọi là hiểu ý thú? Hiểu ý thú là hiểu rằng: Như Lai là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm. Tâm đó tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, là tâm mầu nhiệm, tròn đầy giác ngộ. Thọ lượng của nó vô thỉ vô chung, vì không sanh không diệt. Nói thọ lượng Như Lai kỳ thật chính là nói thọ lượng của tâm. Tâm đó lại là tâm vốn có của tất cả chúng sanh. Cũng có thể gọi nó là Phật tri kiến, là thường trụ chơn tâm, là Phật tánh, là Bát Nhã thật tướng của mọi người. Hiểu ý thú như vậy rồi…thì…chợt thấy rằng: Ta là Phật! Phật ở lòng ta! Bấy giờ trí tuệ Như Lai Vô thượng và Nhất thiết chủng trí đồng một thời sanh đầy đủ ở nơi ta vậy.
Nghe Thọ mệnh Như Lai sanh lòng tin hiểu chắc thì người đó thấy Phật thường ở núi Kỳ xà Quật cùng chúng Bồ tát Thanh Văn nói pháp. Lại thấy cõi Ta bà không ô uế nữa. Đất bằng lưu ly, cây báu ngang hàng, lâu đài báu nguy nga. Vàng Diêm phù làm lan can trang trí khắp tám nẻo đường đẹp đẽ….
Nghe qua rất huyển hoặc! Có thật vậy không ? Nếu không thì Phật nói dối ? Nếu thật thì thật thế nào ?
– Đó là sự thật. Nhưng sự thật phải được hiểu như vầy:
Người học Đại thừa tuệ, luôn luôn quán chiếu, từ quán chiếu đi đến chiếu kiến, thấy rõ rằng: Phật là thường tru. Pháp là thường tru. Tăng là thường tru. Đó là thập phương thường tru Tam bảo ở ngoài. Chẳng những vậy, còn phải biết cho rõ rằng: Phật thường trụ. Pháp thường tru. Tăng thường tru vốn có ở tâm mình và từ đó hiểu rằng:
“Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề
Kháp như cầu thố giốc”.
Nghĩa là:
Phật và Pháp ở tại thế gian
Thành Phật, không xa rời thế gian
Xa rời thế gian, mong cầu quả Phật
Giống như tìm sừng thỏ lông rùa. (Kinh Pháp Bảo Đàn)
Không tư duy quán chiếu như vậy, không tin và hiểu như vậy, thì suốt đời dù có tu hành ép xác, khổ thân, hủy thân, rốt cuộc không đem lại kết quả gì. Bởi vì sai lạc chánh nhơn thành Phật thì không sao thành Phật được, cũng như đem cát nấu hy vọng thành cơm, không làm sao có cơm được!
Cõi Ta bà vốn không uế tịnh. Tịnh hay ố do tâm mê hay ngộ của con người. Mùa Xuân vốn chẳng vui buồn, vui buồn do tâm trạng người nhìn xem cảnh vật:
“Vui Xuân vui khắp phương trời,
Buồn Xuân riêng để cho người tương tư” (Nguyễn Du)
* Sau Như Lai diệt độ, ai nghe Thọ mệnh Như Lai mà sanh lòng tùy hỉ, đó là biểu hiện lòng tin sâu chắc. Nếu phát tâm thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói thì người nầy luôn luôn có Như Lai bên cạnh.
Ta có tâm Như Lai thì ta là Như Lai. Ta là Như Lai thì trên đầu, trên cổ, bên cạnh, trên toàn thân có Như Lai cũng không là việc khó hiểu nữa.
* Người nông dân gieo hạt, ương mầm, trồng cây để mong ngày thu hoạch được trái chín. Trái chín đã thu hoạch, có nghĩa là thời kỳ gieo hạt, ương mầm, trồng cây, người nông dân đã làm tốt trước rồi.
Tất cả sự cúng dường Tam bảo dù nhỏ dù lớn, dù ít dù nhiều, nhằm gieo hạt giống giải thoát giác ngộ, trở về Như Lai Phật của mình. Nay hiểu được, hiểu kỹ, hiểu chắc, hiểu đúng về Thọ mệnh Như Lai có nghĩa là tự biết, tự thể nhập Phật mình, chính mình là Phật thì không cần cúng dường Tam Bảo nữa, vì được xem đã cúng dường viên mãn lắm rồi vậy.
*****
PHẨM 18
TÙY HỈ CÔNG ĐỨC
Lúc bấy giờ Bồ tát Di Lặc bach Phật: Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh Pháp Hoa mà lòng vui đẹp (tùy hỉ), thì những người ấy đặng bao nhiêu phước đức ?”
Phật bảo Bồ tát Di Lặc: “A dật đa! Sau Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cùng hạng người trí khác, nghe kinh này mà lòng vui đẹp, rồi từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại nơi chư tăng ở, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng rẫy, đem điều đã nghe, tùy sức mà diễn thuyết cho cha mẹ, họ hàng, thiện hữu cùng nghe, rồi những người này nghe xong dạy cho người khác. Những người khác này nghe xong, dạy cho những người khác nữam như vậy cho tới người thứ năm mươi.
Này A dật đa! Công đức nghe kinh vui đẹp của hàng thiện nam tử nữ nhân thứ năm mươi đó sẽ được như lời ta sắp nói đây, ngươi hãy lắng nghe.
“Nếu có người làm hạnh bố thí, ban cấp những thứ cần dùng ngọc ngà, châu báu, voi ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác cho vô lượng chúng sanh trong vô số thế giới, suốt một thời gian là 80 năm. Tài thí như vậy xong rồi, vị thí chủ ấy lại nghĩ đến việc đem Phật pháp ra mà dạy dỗ dìu dắt chúng sinh lúc ấy đã già suy, tuổi quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn, không bao lâu sẽ chết. Vị thí chủ ấy liền nhóm chúng sinh giáo hóa, khiến chúng đặng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm hoặc A la hớn. Ý ông nghĩ sao ? Công đức của vị đại thí chủ đó có nhiều chăng ?
Bồ tát Di Lặc bạch Phật: “Thế Tôn! Công đức của người ấy nhiều vô lượng vô biên. Chỉ việc tài thí thôi đã là vô lượng rồi, hà huống còn pháp thí đến đặng A la hớn”.
Phật bảo Bồ tát Di Lặc: “Ta rành nói ngươi nghe nhé! Công đức của vị thí chủ ấy không bằng một trong trăm ngàn muôn ức phần công đức của người thứ năm mươi nghe Kinh Pháp Hoa mà lòng vui đẹp.
“Này A dật đa! Người nghe Kinh Pháp Hoa thứ năm mươi mà tùy hỉ còn được công đức vô lượng vô biên như thế, huống hồ hạng người nghe kinh lúc ban sơ, ngay trong Pháp hội.
“Này A dật đa! Nếu có người vì lòng muốn nghe kinh này mà đến chùa, hoặc ngồi, hoặc đứng, dầu trong chốc lát để nghe nhận lời, người ấy có những công đức nhờ đó mà sẽ tái sanh trong cảnh giàu có rồi sau lại lên thiên cung.
“Còn người nào, trong chỗ giảng kinh mà biết khuyên người đến sau ngồi nghe, hoặc chia chỗ ngồi, thì người ấy, khi chuyển thân, đặng chỗ ngồi của Đế Thích, Phạm Vương hay Chuyển luân thánh Vương.
“A dật đa! Nếu lại có người giới thiệu và khuyến khích người khác nghe giảng Kinh Pháp Hoa, và được khuyên nhận lời để nghe, dầu trong chốc lát, thì người giới thiệu và khuyến khích đặng công đức, khi chuyển thân cùng sanh một nơi với hàng Bồ tát, đầy đủ “tổng trì”, căn tánh bén nhạy, có trí tuệ, trăm ngàn muôn đời chẳng hề ngọng câm, miệng lưỡi không hôi thối, môi răng tốt đẹp, mặt mày đoan trang, mũi lớn cao thẳng.
“A dật đa! Ngươi thử xem: khuyên một người đi nghe Pháp mà được công đức như thế, hà huống một mòng nghe, nói, đọc, tụng Kinh Pháp Hoa, lại trong đám đông vì người mà giải thích, và tu hành đúng như lời nói trong kinh.”
THÂM NGHĨA
Khi thấy một người khác làm một điều gì mà mình đồng ý vui mừng tán thán hổ trợ, gọi đó là tùy hỉ. Tùy hỉ cũng có thể là tùy hỉ thiện và cũng có thể là tùy hỉ ác. Về hành động thiện cũng như hành động ác, kinh điển thường chia: Hoặc tự tác hoặc giáo tha tác, hoặc kiến tác tùy hỉ, có nghĩa là hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy ai làm tùy hỉ tán thành. Tùy hỉ tác là gián tiếp giáo tha tác; giáo tha tác là gián tiếp tự tác. Thế nên tùy hỉ cũng có thể mắc tội lớn, nếu tùy hỉ với những điều ác, người ác. Tùy hỉ với Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là tùy hỉ thiện, tùy hỉ với chân tâm, với Phật tri kiến mình, nên phước đức lớn lao, không thể dùng ngôn từ tán thán, dùng tỉ lệ so sánh được.
Vậy tùy hỉ là tùy hỉ những gì ở Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ?
* Tùy hỉ rằng: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là Kinh Đại Thừa viên giáo liễu nghĩa. Ba đời chư Phật chỉ nói Kinh Pháp Hoa trước giờ phút sắp nhập Niết bàn để rồi thọ ký cho tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.
(Phẩm Tựa thứ 1)
* Tùy hỉ rằng: chư Phật Như Lai ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên:
- Giới thiệu (khai) tri kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết.
- Chỉ (thị) tri kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh thấy.
- Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ (ngộ) về tri kiến Phật của mình.
- Dạy cho chúng sanh sống bằng (nhập) tri kiến Phật của mình vốn có: Vì vậy, kinh nói: “Tất cả chúng sanh đã thành Phât”
(Phẩm Phương tiện thứ 2)
* Tùy hỉ rằng: Giáo lý của ba đời chư Phật đều dạy cho chúng sanh pháp nhất thừa: Hễ tu hành là thành Phật. Thanh văn, Duyên giác thừa chỉ là xe dê, xe nai; ông Trưởng giả phương tiện nói đó thôi.
(Phẩm Thí dụ thứ 3)
* Tùy hỉ rằng: Phật và chúng sanh cùng ở một nguyên quán: Như Lai viên giác diệu tâm; cũng như đứa con hoang cùng ông Trưởng giả vốn là cha con ruột, cùng ở trong cảnh gia đình một cự phú hào. Con vì bỏ cha, bỏ nhà đi hoang nên đói khổ lang thang lưu lạc. Ngày trở về nhận được cha, thì con hưởng trọn cái gia tài cự phú hào vô tận ấy. Chúng sanh không biết mình có Phật chất đành cơ cực sống với tâm trạng đau khổ bởi vô minh. Ngày tỉnh ngộ quay về sống bằng tri kiến Phật của mình thì Bồ đề Niết bàn là sự nghiệp chung mà tất cả chúng sanh có quyền thừa hưởng trọn.
(Phẩm Tín giải thứ 4)
* Tùy hỉ rằng: Sự thật trước sau, Phật chỉ dạy cho tất cả đệ tử của mình về pháp Đại Thừa. Nhưng tùy căn cơ chủng tánh, nghe ra có Tiểu, có Trung, có Đại khác nhau. Như một trận mưa tuôn chỉ có một vị đượm nhuần mát mẻ, thế mà cây cổ thụ, cây lựu, cây lê, cây lúa mạ tùy sức hấp thụ mà giống cây có to, có vừa, có bé không đồng.
(Phẩm Dược Thảo Dụ số 5)
* Tùy hỉ rằng: Ông Xá Lợi Phất là người đầu tiên trong hàng Thanh văn, được thọ ký thành Phật. Giờ đây ông Đại ca diếp, ông Tu bồ đề, ông Ca Chiên Diên, ông Mục kiền Liên cũng được thọ ký thành Phật. Vì sự thọ ký không phải là sự thi ân riêng rẽ của Phật dành cho người đệ tử dễ thương nào. Cũng không phải là lời tiên tri may rủi hay ước lượng, dự đoán, phỏng chừng. Mà thọ ký là nói lên một sự thật tất yếu tất nhiên vốn vậy của tất cả mọi người. Cho nên rồi đây 500 đại đệ tử cũng sẽ được thọ ký. Những người hữu học, vô học cũng được thọ ký. Nói thẳng ra , tất cả chúng sanh đều được thọ ký thành Phật với cái vốn liếng Phật tánh sẵn có của mình.
(Phẩm Thọ Ký thứ 6, 8, 9)
* Tùy hỉ rằng: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là kinh giáo Bồ tát pháp, Phật sở hộ niệm. Tu học Diệu Pháp Liên Hoa kinh, mới đi cuối con đường Phật, mới đến nơi Bảo sở. Không tu học kinh Pháp Hoa, dù có được Niết bàn nhưng đó là hóa thành, đó là quyền biến phương tiện của một đạo sư….
(Phẩm Hóa Thành Dụ thứ 7)
* Tùy hỉ rằng: Những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói và tùy hỉ kinh Diệu Pháp Liên Hoa đều được gọi là Pháp Sư. Họ không phải là người thường, vì người thường không thể nghe, không thể chấp nhận nổi kinh nầy. Họ là những người được Phật thọ ký thành Phật, được Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu. Họ là sứ giả Như Lai.
(Phẩm Pháp Sư thứ 10)
* Tùy hỉ rằng: Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ. Đa Bảo Như Lai và Tháp là Phật pháp thường trụ về mặt thời gian. Phân thân Phật nhiều bất khả thuyết, bất khả thuyết vô lượng vô biên a tăng kỳ hằng hà sa của Thích Ca Mâu Ni Phật và cây báu…là Phật pháp thường trụ về mặt không gian đó…
(Phẩm Hiện Bảo Tháp thứ 11)
* Tùy hỉ rằng: Đề Bà Đạt Đa thuộc hạng “Nhứt xiển đề” mà được thọ ký thành Phật, thì tất cả chúng sanh không phải “Nhứt xiển đề” thừa khả năng tu hành thành Phật. Long Nữ thành được Phật thì tất cả người nữ thừa khả năng tu hành thành Phật.
(Phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12)
* Tùy hỉ rằng: Trì Kinh Pháp Hoa ở cõi Ta bà có khó khăn nhưng có sức cố gắng, có khả năng, có phát tâm dũng mãnh vẫn làm được, như Bồ tát Dược Vương và Bồ tát Đại Nhạo Thuyết đã phát nguyện trì.
(Phẩm Khuyến trì thứ 13)
* Tùy hỉ rằng: Hành xứ, thân cận xứ, an lạc hạnh, đại bi tâm là bốn điều kiện cần có để cho Pháp sư Pháp Hoa hoàn thành công hạnh tự lợi, lợi tha viên mãn.
(Phẩm An Lạc Hạnh thứ 14)
* Tùy hỉ rằng: Khả năng tu tập của mình là nhân tố quyết định thành công. Đừng hy vọng trông nhờ ở tha nhân nào khác. Nếu có sự giúp đỡ của tha nhân bằng tám lần thành công, thì sự cố gắng nổ lực của mình gấp mười hai vạn lần hơn hảo ý của tha nhân cảm tình giúp đỡ. Phải phát triển nghị lực sẵn có của chính mình và sự thật, mỗi người đều có khả năng nghị lực đó.
(Phẩm Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15)
* Tùy hỉ rằng: Thọ mệnh Như Lai vĩnh cửu ở thời gian vô tận, không gian vô cùng. vì “Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhơn ngôn: nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhơn bất năng giải ngã sở thuyết nghĩa. Như Lai giả vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai.
(Phẩm như Lai Thọ Lượng thứ 16)
* Tùy hỉ rằng: hiểu kỹ, hiểu đúng, ý thú về Như Lai Thọ Lượng tức là hiểu kỹ, hiểu đúng về Phật tánh, về Như Lai Viên Giác diệu tâm của mình.
Phát hiện trong quặng có vàng, sẽ nấu lọc quặng để lấy vàng. Biết mình có Như Lai Viên giác diệu tâm sẽ gạn lọc cặn bã vô minh để lấy Phật tánh.
(Phẩm Phân Biệt công Đức thứ 17)
* Tùy hỉ rằng: Nghe Kinh Pháp Hoa mà sanh tâm vui mừng, tâm đắc là người không phải tầm thường. Nghe rồi thọ trì, đọc học, biên chép, giảng nói và tùy hỉ, khuyến khích cho nhiều người cùng nghe, cùng tu học là Bồ tát hạnh đã trưởng thành vượt bực rồi. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác với người nầy chẳng còn xa. Người này đang ngồi tòa Bồ đề dưới bóng cây đạo.
(Phẩm Tùy Hỉ Công Đức thứ 18)
* Tùy hỉ rằng: Kinh Pháp Hoa là tối tôn tối thượng. Những người thọ trì, đọc học, biên chép, giảng nói và vui mừng tâm đắc với Kinh Pháp Hoa, sẽ được công to và phước đức rất nhiều. Tất cả đều được tôn vinh là “Pháp sư”.
Pháp sư Pháp Hoa là người có thể có được “Lục căn thanh tịnh” mà không cần thay đổi, hủy bỏ “lục căn vốn có của cha mẹ sanh ra”. “Lục căn thanh tịnh” thì “lục trần”, “lục thức” của Pháp sư Pháp Hoa cũng đều được thanh tịnh như vậy.
(Phẩm Pháp Sư Công Đức thứ 19)
* Tùy hỉ rằng: Câu nói của Bồ tát Thường Bất Khinh: “Tôi không dám khinh các Ngài, rồi đây tất cả các Ngài đều sẽ thành Phật”. Câu nói đó là một âm vang sấm sét, réo gọi, thức tỉnh những ai còn mê mệt mơ hồ về Tri Kiến Phật và khả năng thành Phật của mình là thiệt thòi lớn lao hơn hết. Chàng Cùng tử sở dĩ đói khổ lang thang chỉ vì “khinh mình”, vì không nhận biết ở vạt áo mình có viên minh châu vô giá. Ngày phát hiện ra viên bảo châu là ngày mình trở thành cự phú nhất đời.
(Phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát thứ 20)
* Tùy hỉ rằng: Phật chỉ là một con người. “Thành Phật” là người đạt đến đỉnh cao vô thượng của trí tuệ. Nhận thức bằng “Phật tuệ” thì “Pháp giới bất nhị”. Quán sát bằng “Phật nhãn” thì “Pháp giới nhất chân”.
Ngày thành Phật là ngày toàn thân con người trở thành một khối “trí tuệ” sáng suốt, vén tan hết bóng tối vô minh trong mười phương quốc độ. Kinh nói: “Toàn thân Như Lai từng lỗ chân lông, phóng hào quang…”
(Phẩm Như Lai Thần Lực thứ 21)
* Tùy hỉ rằng: Giá trị Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ngang bằng với giá trị của quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Giữ gìn Kinh Pháp Hoa là giữ gìn quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Truyền bá Kinh Pháp Hoa cho tất cả chúng sinh tức là truyền trao quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho chúng sinh vậy.
Kinh Pháp Hoa là nền giáo lý cô đọng của công trình tu tập trải qua trăm ngàn muôn ức A tăng kỳ kiếp mà nên, tu học Kinh Pháp Hoa tức là tu học về “Nhất thiết trí”, “Đạo chủng trí”, “Nhất thiết chủng trí”, “Vô sư trí”, “Tự nhiên trí” và “Phật tuệ vô thượng”.
Là Bồ tát, đệ tử Phật gần gũi, đọc học, biên chép, giảng nói và truyền bá Kinh Pháp Hoa là cách đền đáp thâm ân Phật cao quý nhất.
“Trong tất cả cung cách cúng dường, cúng dường “Pháp” là ưu việt hơn hết”.
(Phẩm Chúc Lũy thứ 22)
* Tùy hỉ rằng: Ví như người bệnh phải cầu thuốc để trị bệnh. Người tu tự coi mình là người đang mắc phải chứng bệnh vô minh. Muốn trị dứt chứng bệnh vô minh phải trải qua quá trình điều trị bằng “thuốc pháp”. “Vi rút chấp ngã” và “chấp pháp” là loại “vi rút” cực kỳ nguy hiểm. Từ đó sinh nhiều biến chứng: “tam độc”, “ngũ cái”, “thập triền” khiến cho chúng sanh đắm chìm lặn hụp trong ái hà, khổ hải, ưu bi….
Muốn được giác ngộ và giải thoát phải bồi dưỡng thiện pháp lâu dài cũng như phải hóa giải diệt trừ ác pháp lâu dài và cuối cùng phải tiêu hóa chúng với thời gian lâu dài cho đến khi nào cái chất “ngã tướng”, “nhân tướng”….tàn rụi hết mới thôi…
(Phẩm Dược Vương Bồ tát Bổn sự thứ 23)
* Tùy hỉ rằng: Hễ sử dụng Phật tuệ thì “Pháp giới bất nhị” cho nên thế giới “Nhất Thiết Tịnh Quang trang nghiêm” của đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí hiện ra không xa.
Diệu Âm Bồ tát là “nhân cách hóa” cái âm thanh mầu nhiệm của cõi lòng thanh tịnh. Do vậy, khi cõi lòng thanh tịnh thì “cõi đất tâm” đẹp đẽ trang nghiêm thanh tịnh.
Diệu Âm Bồ tát đến cõi Ta bà đẹp đẽ trang nghiêm thanh tịnh. Diệu Âm Bồ tát trở về bản độ thì cõi Ta bà trở lại trạng thái uế độ như cũ.
(Phẩm Diệu Âm Bồ tát Vãng lai thứ 24)
* Tùy hỉ rằng:
Diệu Âm Quán Thế âm
Phạm Âm, Hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm
Niệm niệm vật sanh nghi
Quán Thế Âm tịnh thánh
Có nghĩa là Diệu Âm Quán Thế âm. Quán Thế Âm tức Diệu Âm, chỉ khác ở chỗ Diệu Âm có lúc đi đến, có lúc trở về còn Quán Thế Âm thì giữ lại không đến không đi. Do vậy, niệm Quán Thế Âm liên tục là cách tu ưu việt hơn hết. Cho nên “Quán Thế Âm là Thánh của sự thanh tịnh.”
“…Phật xuất Ta bà giới
Thử phương chân giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thực tùng văn trung nhập”
(Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn thứ 25)
* Tùy hỉ rằng: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là tạng kinh bí yếu của chư Phật. Tu học, theo kinh Pháp Hoa là tu học viên giáo liễu nghĩa thượng thừa. Sống theo Kinh Pháp Hoa là sống theo chân lý, sống đúng chân lý. Vì vậy, mà các hàng Bồ tát, Thiên Vương, Ma Vương, phát nguyện đem hết khả năng mình để hộ trì kinh, bảo hộ cho những ai thọ trì, đọc học, truyền bá kinh bằng những “Đà la ni” mà họ có.
“Đà la ni” là một thứ ngữ ngôn phủ định ngữ ngôn. Thứ ngữ ngôn “ngôn ngữ đạo đoạn”. Thứ ngữ ngôn nhằm đưa hành giả Pháp Hoa lên đỉnh cao “tâm hành xứ diệt”.
(Phẩm Đà La Ni thứ 26)
* Tùy hỉ rằng: Bồ đề tự tánh, ai cũng có thể trở về để thành Phật, nhưng việc thành Phật không mong cầu nóng vội, mà phải đoạn trừ phiền não có quá trình, chứng nhập “pháp thân” từng phần, sự giác ngộ giải thoát tiệm tăng từng mức độ: Vua Diệu Trang Nghiêm cách đây vô lượng kiếp, nay là Hoa Đức Bồ tát. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, xưa kia, nay là Bồ tát Dược Vương và Dược Thượng.
Ở phẩm “Tựa” thứ nhất Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh vốn là một nhà vua có tám người con. Nhà vua xuất gia tu thành Phật, sau đó độ cho tám người con ở trong Phật pháp làm nhiều phật sự.
Ở phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự” thứ 27, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hai người con xuất gia hành đạo chứng đắc tự tại thần thông rồi độ cho vua cha xuất gia tu hành thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cải tạo A lại da trước, chuyển hóa tiền thất thức sau hoặc chuyển hóa tiền thất thức trước, cải tạo A lại da sau. Cách tu nào cũng đem lại kết quả được, tùy căn tánh của mỗi người.
(Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự thứ 27)
* Tùy hỉ rằng: Thọ trì, đọc, học Kinh Pháp Hoa là bồi dưỡng cái trí “năng tri”. Đem lại cho con người sự giải thoát, giác ngộ cốt yếu là ở nơi cái đức “năng hành”.
Bồ Tát Đại Trí Văn Thù tiêu biểu cho cái trí “năng tri” xuất hiện ở phẩm thứ nhất để khai đạo giáo nghĩa Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa.
Bồ tát Đại hạnh Phổ Hiền cuối cùng mới xuất hiện để động viên tinh thần “hành giả Pháp Hoa” với cái nhan đề “Phổ Hiền khuyến phát” thứ 28.
Điều đó nói lên: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa không phải là thứ kinh để cho mọi người đọc tụng được phước, mà “hành giả Pháp Hoa phải là người “Tri”, “Hành” hợp nhất mới đem lại kết quả lớn lao”.
Tóm lại, Tùy hỉ Kinh Pháp Hoa có nghĩa là vui mừng chấp nhận nội dung, tư tưởng toàn bộ giáo lý của hệ tư tưởng Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa để làm kim chỉ nam cho tiến trình tu tập của mình và trọng yếu đạt đến thành công là: “Tri hành hợp nhất”
(Phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát” thứ 28)
*****
PHẨM 19
PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC
Lúc bấy giờ, Phật bảo Bồ tát Thường Tinh Tấn: Nếu có trai lành gái tín nào lãnh giữ kinh Pháp Hoa này bằng cách đọc, tụng, giảng nói hoặc biên chép thì người đó:
* Về mắt sẽ được 800 công đức.
* Về tai sẽ được 1.200 công đức.
* Về mũi sẽ được 800 công đức.
* Về lưỡi sẽ được 1.200 công đức.
* Về thân sẽ được 800 công đức.
* Về ý sẽ được 1.200 công đức.
Dùng những công đức ấy mà trang nghiêm, bồi dưỡng, cải tạo sáu căn, thì sáu căn được thanh tịnh.
- Nhãn căn công đức:Đôi mắt thịt cha mẹ sinh ra, khi thanh tịnh, thì thấy được tất cả núi rừng, sông biển trong ba ngàn đại thiên thế giới, thấp đến địa ngục A tỳ, cao đến trời hữu đảnh, cũng thấy được các chúng sanh trong các thế giới ấy, cùng những nghiệp nhân, nghiệp quả và những nơi sanh do quả báo quyết định. Tất cả những sự việc ấy đều thấy, đều biết với đôi mắt thanh tịnh của mình.
- Nhĩ căn công đức:Đôi tai cha mẹ sinh ra, khi thanh tịnh, nghe được các thứ tiếng khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như:
* Tiếng voi, ngựa, trâu, xe (thú vật).
* Tiếng khóc la, buồn than.
* Tiếng trống, tiếng loa, chuông lớn, chuông nhỏ.
* Tiếng cười, tiếng nói.
* Tiếng trai, tiếng gái, tiếng con nít, nam nữ.
* Tiếng pháp, tiếng chẳng phải pháp
* Tiếng khổ, tiếng sướng.
* Tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn.
* Tiếng đáng vui, tiếng chẳng đáng vui
* Tiếng trời, tiếng rồng, tiếng các hàng A-tu-la.
* Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió.
* Tiếng địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
* Tiếng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật.
Tóm lại, tuy chưa được thiên nhĩ, nhưng với đôi tai của cha mẹ sanh ra mà thanh tịnh thì tất cả các thứ tiếng trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, đều nghe được và phân biệt từng loại nhưng không vì đó mà “nhĩ căn” bị hư hoại.
- Tỷ căn công đức:Thọ trì kinh Pháp Hoa thì mũi được thanh tịnh, nhờ đó mà “nghe” được các thứ mùi trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới và phân biệt được:
* Mùi các thứ hoa tu-mạn-na, xà đề, mạt lợi v.v..
* Mùi các hoa sen xanh, vàng, trắng, đỏ.
* Mùi cây có hoa, mùi hoa cây có trái.
* Mùi các thứ hương.
Lại rõ biết các thứ mùi chúng sanh như:
* Mùi thú vật (voi, ngựa, dê, trâu v.v..)
* Mùi trai, gái, rừng bụi, hoặc xa hoặc gần.
* Các mùi cây, hoa trên trời.
* Mùi nhân dân cõi trời ở các cung điện hưởng phước, hoặc ở diệu pháp đường nói pháp, hoặc khi dạo chơi.
Lại cũng nghe được:
* Mùi hương của chư thiên đốt.
* Mùi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật.
“Nghe” nhiều như thế, nhưng tỷ căn không bị hư và không lầm lộn. Nếu muốn phân biệt nói cho người khác nghe thì ghi nhớ không sai.
- Thiệt căn công đức:Trì kinh Pháp Hoa thì lưỡi được thanh tịnh, nhờ đó mà:
* Cuối cùng không thọ ác vị.
* Thuyết pháp nói đến chỗ thâm diệu, thấu đến tâm người nghe, khiến họ vui mừng sướng thích và cảm hóa được chư Thiên và A-tu-la, hàng tu hành giàu có, sang trọng.
* Vì khéo nói pháp nên được họ hàng quyền quí, nhân dân theo hầu cúng dường và chư Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật ưa thấy và người nói pháp khéo ấy ở đâu thì được chư Phật xoay về phía đó mà nói pháp, nương đó mà có khả năng thọ trì tất cả các pháp Phật, lại có thể nói ra tiếng pháp thâm diệu.
- Thân căn công đức:Trì kinh Pháp Hoa, sau khi Phật diệt độ thì thân được trong sạch như ngọc lưu ly, làm cho chúng sanh ưa nhìn xem. Như mảng gương sáng, thân ấy là thân thanh tịnh của Bồ tát, trong đó các sắc tượng đều hiện mà chỉ riêng mình thấy mà thôi. Các sắc tượng ấy hoặc là tất cả chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, hoặc cung điện trên các cõi trời, hoặc địa ngục, hoặc Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật.
Tuy chưa được “Vô lậu pháp tánh diệu thân” nhưng nhờ thanh tịnh, cho nên tất cả đều hiện được trong cái nhục thân đó.
- Ý căn công đức:Sau khi Phật diệt độ mà trì kinh Pháp Hoa thì được ý căn thanh tịnh. Dùng ý căn thanh tịnh đó mà nghe một bài kệ, một câu kinh cũng đủ thấu suốt vô lượng nghĩa, hiểu rõ diễn nói cả tháng, cả năm cũng được; mỗi pháp nói ra có thể có những nghĩa thú riêng nhưng tất cả đều nói đúng với “Thật tướng”. Thậm chí khi bàn nói đến sách vở ngoài đời, cách xử thế tiếp vật hay nghề nghiệp sanh nhai, cũng vẫn thuận với chánh pháp. Lại nữa còn biết được những hành động, lời nói đùa trong tâm của sáu đường chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới.
Dầu chưa đặng trí tuệ vô lậu, nhưng ý căn thanh tịnh thì tất cả suy nghĩ, tính lường lời nói đều đúng với lời Phật dạy, không chỗ nào là không chân thật và đúng với lời nói của chư Phật trong quá khứ.
THÂM NGHĨA
Gọi là Pháp sư Pháp Hoa, gồm năm hạng người: Thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng diễn và tùy hỉ.
Nói rằng công đức Pháp sư, kỳ thật nói về công đức sáu căn của pháp sư vậy. Tu học Pháp Hoa, sáu căn của pháp sư sẽ thanh tịnh. Do sáu căn thanh tịnh mà có được công đức, nói cách khác là có được những đặc điểm ưu việt của sáu căn, khác hơn người thường.
* Mỗi căn công đức ít nhiều, do căn đó bén nhạy hay là chậm lụt.
– Nhãn căn có thể thấy một nửa phía trước, những gì thuộc nửa sau, không thấy. Luận về công đức chỉ được 800.
– Nhĩ căn có những đặc tính “Viên, Thông, Thường”, công năng của nó rất ưu việt. Luận về công đức được 1.200.
– Tỷ căn khi thở ra hít vào chặng giữa có khuyết, công đức chỉ chỉ được 800.
– Thiệt căn là mọng mạ của tâm. Lưỡi nói, chỉ là sự thể hiện của tâm. Vận dụng thiệt căn giảng diễn chánh pháp có thể dẫn dắt con người từ triền phược đến giải thoát, từ mê mờ đến giác ngộ. Luận về công đức lưỡi được 1.200.
– Thân căn tùy thuộc sự hiệp ly, công năng thụ động. Luận về công đức chỉ được 800.
– Ý căn là cơ quan động lực của tư duy, tác động qua lại giữa tiền trần cảnh giới. Ý rất bén nhạy và lanh lợi.
“Động thân pháp ngữ độc vi tối.
Dẫn mãn năng chiêu nghiệp lực khiên”.
(Khởi động về thân, phát xuất lời nói chủ động ở ý căn. Thúc đẩy chúng sanh thọ sanh trong sáu nẻo chủ động cũng do ý căn)
Luận về công đức, ý căn được 1.200.
* Vạn loại hữu tình, vô tình sanh tồn, trưởng dưỡng luôn luôn quyện chặt với 3 thời: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai. Và 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Đem thời gian phối hợp với không gian ta thấy 3 x 4 hay 4 x 3 = 12. Đó là con số được biểu trưng đơn vị công đức. Đem số 12 phối hợp với 10 pháp giới vốn có ở một tâm chúng sanh, ta sẽ thấy: 12 x 10=120. Mỗi pháp giới hiện hữu và tồn tại với qui luật tất nhiên của 10 “như thị”. Đem 120 phối hợp với 10 như thị sẽ có 120 x 10=1.200 công đức. Đó là thứ tá dược ngữ ngôn để diễn tả công đức thanh tịnh của sáu căn hơn kém.
* Lục căn mà thanh tịnh thì lục trần cũng thanh tịnh. Trần thanh tịnh thì lục thức cũng thanh tịnh. Căn, trần, thức thanh tịnh thì:
– Thấy tất cả mà như không thấy gì hết; không thấy gì hết mà thấy tất cả.
– Nghe tất cả mà như không nghe gì hết; không nghe gì hết mà nghe tất cả.
– Ngửi tất cả mà như không ngửi gì hết; không ngửi gì hết mà ngửi tất cả.
– Nếm tất cả mà như không nếm gì hết; không nếm gì hết mà nếm tất cả.
– Xúc tất cả mà như không xúc gì hết; không xúc gì hết mà xúc tất cả.
– Biết tất cả mà như không biết gì hết; không biết gì hết mà biết tất cả.
Vì sao vậy ?
Vì sáu căn là sắc. Sáu trần cũng là sắc. Nội sắc hay ngoại sắc cũng chỉ là sắc. Cho nên Pháp sư Pháp Hoa thấy suốt, nghe suốt, ngửi suốt, nếm suốt, xúc suốt, biết suốt không phải là việc khó nói khó hiểu. Vì Pháp sư Pháp Hoa còn có thể hiểu biết suốt cả tâm pháp. Tâm sỡ hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp nữa mà.
* Nghe công đức Pháp sư người ngoại cuộc có thể cho là việc khó tin. Kinh Pháp Hoa nói chuyện hoang đường….
Xin thưa: Đó là sự thật. Nhưng muốn biết sự thật đó cần phải có sự thân chứng. Tôi nói “thân chứng” không phải cái gì cao xa ghê gớm lắm đâu.
Bạn chỉ thử uống một bữa tiệc rượu hơi nhiều đi, để bạn “thân chứng” về cái sự hoành hành tàn phá trí tuệ và cơ thể của bạn. Nếu bạn không uống say mà bạn chỉ nói về tác hại của say rượu, bạn có khéo diễn tả thế nào cũng không bao giờ chính xác được, vì bạn chưa “thân chứng” vậy.
Cũng vậy, Pháp sư Pháp Hoa tu tập, khi sáu căn thanh tịnh rồi thì sự nhận thức về thế giới xa rộng hơn, trong sáng hơn, toàn diện hơn người thường. Đó là việc có thật, nhưng ai có thân chứng mới biết.
* Tìm hiểu đại lược về công năng của sáu căn, khi trở thành thanh tịnh:
– Đôi mắt cha mẹ sinh ra, khi thanh tịnh thì thấy được tất cả núi rừng, sông biển trong ba ngàn đại thiên thế giới, thấp đến địa ngục A tỳ, cao đến trời hữu đảnh. Cũng thấy được tất cả nghiệp nhân, nghiệp quả thiện ác của chúng sanh trong ngần ấy thế giới bằng đôi mắt thanh tịnh của mình.
– Đôi tai cha mẹ sinh ra, khi thanh tịnh, nghe được tất cả các thứ tiếng khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như:
* Tiếng khóc la, buồn than.
* Tiếng voi, ngựa, trâu, xe.
* Tiếng trống,chuông, linh ốc.
* Tiếng cười, nói, trai, gái, đồng nam, đồng nữ.
* Tiếng pháp, phi pháp
* Tiếng khổ, vui.
* Tiếng phàm phu, thánh nhơn.
* Tiếng đáng vui, tiếng chẳng đáng vui
* Tiếng trời, rồng, A-tu-la.
* Tiếng lửa, nước, gió.
* Tiếng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
* Tiếng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật.
Dù chưa được thiên nhĩ, nhưng nghe và phân biệt từng loại âm thanh mà nhĩ căn không bị hư hoại.
– Tỷ căn cha mẹ sanh ra khi thanh tịnh, “nghe” được các thứ mùi trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới và phân biệt:
* Mùi các thứ hoa tu-mạn-na, mạt lợi, chiêm bặc, ba la la.
* Mùi các thứ hoa sen xanh, vàng, trắng, đỏ.
* Mùi cây có hoa, mùi hoa cây có trái.
* Mùi các thứ trầm thủy, chiên đàn..
Lại rõ biết các thứ mùi chúng sanh mê như:
* Mùi thú vật
* Mùi trai, gái, đồng nam, đồng nữ.
* Mùi cỏ cây, rừng bụi xa gần.
Lại cũng nghe được các mùi cây hoa cõi trời như:
* Mùi nhân dân cõi trời, hoặc ở Diệu Pháp đường nói pháp, hoặc lúc dạo chơi.
* Mùi hương của chư thiên đốt.
* Mùi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật.
Bằng tỷ căn của mình, nghe biết phân biệt như thế mà tỷ căn không bị hư hoại. Khi cần nói cho người khác biết, nhớ kỹ, nói không lầm.
– Thiệt căn của cha mẹ sanh ra, khi thanh tịnh tất cả các thức ăn uống, ngon dở, tốt xấu đều trở thành ngon ngọt như cam lồ. Ở trước đại chúng nói pháp, nói ra những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm rót vào lòng đại chúng, khiến mọi người vui mừng, sung sướng. Cảm hóa đến Thiên long bát bộ, đến hàng trí thức, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ đều vui mừng nghe pháp.
– Thân căn cha mẹ sanh, khi thanh tịnh trong sạch như lưu ly làm cho chúng sanh ưa thấy. Vì thân trong sạch, nên chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới với bao nhiêu nghiệp duyên sanh, tử, thiện, ác đều hiện rõ trong thân. Dưới là địa ngục a tỳ, trên đến trời Hữu đảnh, tất cả cảnh vật cùng các loại chúng sanh hiện rõ, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật thuyết pháp đều hiện rõ trong thân thanh tịnh đó.
– Ý căn khi thanh tịnh, Pháp sư nghe một bài kệ, một câu kinh cũng đủ thấu suốt vô lượng nghĩa và có thể diễn nói cả tháng, cả năm cũng không cạn ý. Mỗi pháp nói ra có đủ ý thú riêng, nhưng tất cả đều đúng với “thật tướng” (Thật tướng vô tướng, Vô tướng bất tướng, cố danh thật tướng). Thậm chí luận bàn sách vở ngoại đạo, nói chuyện tế thế an bang, tiếp nhân đãi vật, cũng đều thuận với chánh pháp. Lại còn biết được lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng hí luận của chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới. Dầu chưa được trí tuệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh rồi thì người đó suy nghĩ, tính lường, nói năng điều chi đều là Phật pháp, hợp với lời trong kinh của chư Phật nói trong quá khứ, cũng như chư Phật sẽ nói trong vị lai.
*****
PHẨM 20
THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT
Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ tát Đắc Đại Thế:
“Ngươi nay nên biết, nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di trì kinh Pháp Hoa mà bị mắng nhiếc chê bai, thì người mắng nhiếc chê bai mắc tội báo rất lớn, còn người trì kinh được công đức thanh tịnh lục căn.
Này Đắc Đại Thế! Thuở xưa cách nay vô lượng vô biên số kiếp, có Phật hiệu Oai Âm Vương ra đời, nhằm thời kiếp Ly suy, tại nước Đại Thành. Phật vì người cầu quả Thanh Văn, nói Pháp Tứ đế; vì người cầu quả Bích Chi Phật, nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên; vì hàng Bồ tát cầu Vô thượng giác, nói pháp sáu Ba la mật dẫn dắt đến cứu cánh Phật tuệ.
“Đắc Đại Thế! Phật Oai Âm Vương sống lâu 40 ức na do tha hằng sa kiếp! Chánh pháp của Phật trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của một thế gian! Tượng pháp trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của bốn châu. Sau khi Phật Oai Âm Vương diệt độ, Chánh pháp, Tượng pháp diệt hết có đức Phật khác ra đời, cũng có một hiệu là Oai Âm Vương. Sau đó, tuần tự, có hai muôn ức Phật ra đời cùng một danh hiệu.
Phật Oai Âm Vương đầu tiên diệt độ và sau lúc Chánh pháp diệt hết trong thời Tượng pháp, các Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ có một Bồ tát tên Thường Bất Khinh. Sở dĩ có tên nầy là vì mỗi khi gặp các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Bồ tát lễ lạy khen ngợi: “Tôi rất kính quý vị, không dám khinh quý vị. Vì quý vị đều đi trên đường Bồ tát và sẽ được thành Phật”. Bồ tát Thường Bất Khinh không hề đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái, thậm chí hễ xa thấy tứ chúng là lạy nói: “Tôi không dám khinh quý vị. Vì quý vị đều sẽ được thành Phật”.
Trong tứ chúng có người lòng bất tịnh, giận mắng:
“Ông vô trí Tỳ kheo ở đâu đến mà nói tôi chẳng dám khinh quý vị, rồi lại thọ ký cho chúng tôi sẽ thành Phật; chúng tôi không dùng lời thọ ký bá láp đó đâu”.
Tuy trải qua nhiều năm bị mắng nhiếc, Bồ tát Thường Bất Khinh không giận hờn, cứ luôn nói: “Quý vị sẽ làm Phật”. Lắm khi bị đánh bằng gậy, bị ném gạch đá, Bồ tát chạy tránh ra xa, miệng vẫn nói: “Tôi chẳng dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật”. Vì đó mà ông được gọi tên là Thường Bất Khinh.
Lúc Bồ tát Thường Bất Khinh sắp mệnh chung, trong hư không nghe trọn hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước. Nghe xong Bồ tát sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, vì người rộng nói kinh Pháp Hoa.
Lúc đó, những người trong tứ chúng trước kia đã khinh rẻ Bồ tát Thường Bất Khinh, nay thấy Bồ tát được sức thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, sức đại thiện tịch và nghe Bồ tát thuyết pháp, đều tin phục và theo làm đệ tử.
“Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa ngàn muôn chúng sanh khiến không suy thoái trên đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những chúng sanh ấy, sau khi mệnh chung, được gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh trong hội Pháp Hoa. Nhờ nhân duyên đó, những chúng ấy gặp lại hai ngàn Phật đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng vì hàng tứ chúng nói kinh Pháp Hoa, do vậy mà sáu căn được thanh tịnh, thuyết pháp cho tứ chúng nghe mà không sợ sệt.
“Này Đắc Đại Thế! Sau khi cúng dường cung kính, tôn trọng bao nhiêu đức Phật như thế và trồng các rễ lành, cuối cùng Bồ tát Thường Bất Khinh lại gặp ngàn muôn ức Phật ở trong Pháp hội của chư Phật đó nói kinh Pháp Hoa. Do vậy mà thành tựu công đức vô biên và sẽ được thành Phật.
“Này Đắc Đại Thế! Bồ tát Thường Bất Khinh thuở ấy đâu phải người nào lạ! Chính là thân ta hiện nay vậy. Nếu đời trước ta chẳng thọ trì, đọc tụng và giải nói cho người khác nghe kinh nầy, thì ta chẳng thể mau được quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì ta đã ở trong cõi nước của chư Phật, thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói kinh nầy, nên mau được quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
“Này Đắc Đại Thế! những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thuở ấy, vì khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp luôn luôn chẳng gặp Phật, chẳng gặp Pháp, chẳng thấy Tăng, ngàn kiếp ở địa ngục chịu khổ não lớn. Hết tội rồi, lại gặp Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa cho đạo quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
“Này Đắc Đại Thế, bốn chúng đã khinh khi Bồ tát Thường Bất Khinh nào phải ai lạ, chính đó là những người hiện nay đều là bậc bất thối chuyển trên đường chánh giác, tức là bọn 500 Bồ tát của Bạc-đà-bà-la, bọn 500 Tỳ kheo của Sư tử Nguyệt, bọn 500 Ưu bà tắc của Ni Tư Phật, đang ở trong pháp hội nầy”.
“Này Đắc Đại Thế, phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các Đại Bồ tát có thể giúp họ đến Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên sau khi Phật diệt độ, phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói”.
Đức Phật bèn đọc một bài kệ nhắc lại nghĩa trên.
THÂM NGHĨA
Thường Bất Khinh là danh hiệu do các Tỳ kheo và những người Tăng thượng mạn đặt, để tặng cho người với ác ý mỉa mai khinh thị. Nhưng với hệ giáo lý thuần viên độc diệu của Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ tát là một âm thanh réo gọi, thức tỉnh những ai còn mê mệt, mơ hồ về Tri Kiến Phật, và khả năng thành Phật của mình.
Trong tất cả thứ khinh, khinh khả năng thành Phật của mình là tai họa, là thiệt thòi lớn lao hơn hết. Chàng cùng tử sở dĩ đói khổ lang thang, chỉ vì không nhận biết ở vạt áo mình có hạt bảo châu vô giá.
Vấn đề khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Vấn đề Phật thọ ký tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, đến đây càng thấy rõ, những vấn đề đó đã có từ thời Phật Oai Âm Vương, mà người truyền bá tích cực cái chân lý đó, là Bồ tát Thường Bất Khinh vậy.
Phật Oai Âm Vương xuất thế độ sanh hai muôn ức Phật tiếp nối ra đời có cùng một hiệu Oai Âm Vương như vậy. Sự việc đó, nhằm nói lên cái ý:
Tâm trước tâm sau là một.
Chân lý trước chân lý sau không khác.
Đề cập sự kiện Oai Âm Vương Phật ở phẩm 20 là một dấu hiệu chỉ dẫn hướng đi, để dẫn đến hành pháp, cách tu quán niệm “Diệu Âm” và “Quán Thế Âm” ở phẩm 24 và 25 sau nầy.
Vấn đề âm văn là vấn đề quan trọng bậc nhất, vì phù hợp căn cơ chúng sanh ở cõi Ta bà, sau khi so sánh 25 cách tu qua 18 giới và 7 đại, đúc kết thành quả, Bồ tát Văn Thù bạch Phật:
“Phật xuất Ta bà giới
Thử phương chân giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thực tùng văn trung nhập”
Dịch:
Cách giáo hóa cõi nầy
Bén nhạy ở âm văn
Muốn được tam ma đề
Phải từ nghe mà nhập (Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Oai Âm Vương Phật, phải được hiểu là Phật tâm, tiếng lòng trong trắng của con người, khi con người còn “oai quyền”, còn khả năng tự chủ. Phật xuất hiện ở kiếp Ly Suy, nghĩa là ở vào thời điểm mà tâm không có các suy tàn bệ rạc: Tham, sân, si, mạn….Đó là thời điểm Phật Oai Âm Vương hiện ở lòng ta. Và cũng chính lúc đó là lúc Oai Âm Vương Phật ở nước “Đại Thành” viên mãn nhất.
Nếu là thời kỳ chánh pháp, những Tỳ kheo tăng thượng mạn chưa có cơ hội thao túng hoành hành. Bồ tát Thường Bất Khinh ở vào thời kỳ tượng pháp bấy giờ tăng thượng mạn Tỳ kheo….có thế lực lớn mới áp đảo người lành, chỉ vì cái tội nói lên sự thật:
“Tôi không dám khinh các Ngài
Vì các Ngài đều sẽ thành Phật”.
Tu nhơn thành Phật, cốt ở chỗ nhận thức chân lý rồi thực hành những gì phù hợp quy luật của chân lý. Nhận thức rõ quặng vàng rồi đem đốt, nung nấu, lọc thì vàng ròng sẽ hiển hiện ra. Bồ tát Thường Bất Khinh là người thực hành chân lý chỉ dạy ở kinh, mà không chuyên đọc tụng kinh điển qua ngữ ngôn văn tự.
Tế Thiên Hòa thượng nói: “Tụng kinh giả minh Phật chi lý” (Tụng kinh cốt để hiểu lý Phật dạy cái gì).
Phải “sắp chết”, có khi cần phải chết thật cũng nên. Có chết đi cái cũ kỹ, cái hạn hẹp, cái ô trược để có cái mới mẻ hơn, cái thanh tịnh hơn. Bồ tát Thường Bất Khinh chỉ qua một cơn “sắp chết” mà thâm nhập Pháp Hoa tam muội, vượt hơn gấp hai mươi ngàn muôn ức lần. Qua một cơn “sắp chết” để rồi sống thêm hai muôn trăm ức na do tha tuổi, để vì người giảng nói Pháp Hoa. Đó là sự phủ định để tiến lên theo đường xoắn ốc trong quá trình tu tập vậy.
Chánh nghĩa sẽ thắng mặc dù quá trình tranh đấu có gian khổ gay go. Chân lý sẽ thắng mặc dù bọn người tăng thượng mạn, bọn người lợi dưỡng, bọn người kiến thủ áp đảo lấn lướt một thời. Bồ tát Thường Bất Khinh thành công trong giải thoát tự tại, trong đại thiện tịch của mình. Nhóm người tăng thượng mạn…cuối cùng quay về quy thuận phục tùng chân lý.
Chánh nghĩa sáng ngời, chân lý luôn luôn tỏ rạng. Bồ tát Thường Bất Khinh an nhiên tự tại giảng kinh Pháp Hoa ở pháp hội của hai muôn ức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Và trong pháp hội của hai nghìn Phật cùng hiệu Vân Tự Tại Vương. Nói trắng ra: Bồ tát Thường Bất Khinh đường hoàng tự tại giảng nói kinh Pháp Hoa hướng dẫn chúng sanh đi trên con đường Phật, dưới bầu vũ trụ thênh thang, trời quang mây sáng, từ kiếp nầy sang kiếp khác, để hoàn thành sứ giả Như Lai, bồi dưỡng mãi lên cái nhân thành Phật của mình.
Những người mắng nhiếc đánh đập Bồ tát Thường Bất Khinh, nghìn kiếp ở địa ngục a tỳ, hai trăm ức kiếp không gặp Phật -Pháp – Tăng. Đó là điều chí lý. Bởi vì, họ không chịu sống trong chân lý, trong ánh sáng thì họ sống trong mê mờ, trong bóng tối vậy. Sống trong mê mờ, trong bóng tối thì họ sẽ chịu khổ dài dài trong địa ngục A tỳ. Bởi vì A tỳ ngục có nghĩa là chỗ thọ khổ liên tục, không có lúc tạm xả hơi.
Không biết mình có Phật chất, không hiểu được Tri Kiến Phật của mình, thì đừng mong gì thấy Phật ở một nơi khác. Pháp và Tăng cũng vậy. Người Phật tử phải học kỹ ba pháp tự quy y:
– Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo phát vô thượng tâm.
– Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải.
-Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại.
Hiểu rõ ý nghĩa tam tự quy y, ta cũng có gặp gỡ Phật – Pháp – Tăng thường xuyên trong đời sống hằng ngày của ta đó.
Xưa kia là Bồ tát Thường Bất Khinh, nay là Phật Thích Ca hiện tại. Xưa kia là những người tăng thượng mạn Tỳ kheo và cư sĩ, nay là nhóm ông Bạt-đa-la năm trăm Bồ tát. Nhóm ông Sư Tử Nguyệt 500 Tỳ kheo. Nhóm ông Ni Tư Phật 500 Ưu Bà tắc.
Qua câu chuyện “bổn sanh, bổn sự” đó, người Phật tử thấy rằng: Gieo giống sớm thì thu hoạch sớm. Chần chờ ương hạt thì trái chín muộn hơn. Nhưng có cái vinh hạnh ưu việt chung cho tất cả mọi người. Dù sớm, dù muộn hạt giống Phật của mỗi người không đời nào mất!
Người Phật tử phải luôn luôn đừng khinh mình (Thường Bất Khinh). Mỗi chúng ta phải là một Bồ tát Thường Bất Khinh đối với chúng ta. Ngày đêm ta nên tự nhủ:
“Ngươi sẽ thành Phật”.
*****
PHẨM 21
NHƯ LAI THẦN LỰC
Lúc bấy giờ, vô số Bồ tát đã từ đất vọt lên ở trước Phật, tất cả đều nhất tâm chấp tay, chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch rằng:
“Thế Tôn! Sau Phật diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở xứ nào mà phân thân Phật đã diệt độ hết. Bởi vì chúng con cũng muốn đọc tụng, biên chép, giảng nói để cúng dường “Đại pháp chân tịnh” nầy.
Lúc ấy, trước Phật Văn Thù Sư Lợi và vô lượng Bồ tát xưa kia ở thế giới Ta Bà, cùng các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và Thiên long, Bát bộ, Thế Tôn hiện sức thần thông lớn: le lưỡi rộng dài tới cõi trời Phạm thế và các lỗ chân lông phóng ra vô số hào quang đủ màu, khắp soi mười phương thế giới. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử, dưới cội cây báu, cũng làm như thế: le lưỡi rộng dài và phóng ra vô lượng hào quang.
Đức Phật Thích Ca và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn năm trăm ngàn năm, sau đó mới rút lưỡi vô và đồng thời tằng hắng, cùng chung khảy móng tay. Hai tiếng vang đó lan khắp mười phương thế giới của chư Phật, Đại địa rung động sáu cách. Trời, rồng, dạ xoa…người và loài chẳng phải người v.v…nhờ sức thần Phật đều thấy cõi Ta bà vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Phật ngồi trên tòa sư tử, dưới những cây báu, thấy Phật Thích Ca và Đa Bảo Như Lai ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Bồ tát và tứ chúng cung kính vây quanh Đức Phật Thích Ca. Tất cả đều vui mừng như được cái chưa từng có.
Ngay lúc ấy, chư thiên trong hư không lớn tiếng xướng lên: “Cách đây vô lượng thế giới, có nước tên là Ta bà, nơi ấy có Phật hiệu Thích Ca, hiện đang vì các Đại Bồ tát nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Các ngươi nên vui theo trong thâm tâm, cũng nên lễ bái cúng dường Phật Thích Ca”.
Chúng sanh nghe thấy tiếng trong hư không ấy rồi, bèn chấp tay, quay về cõi Ta bà, cử thanh niệm:
“Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!”
Rồi dùng các món hoa, hương, chuỗi ngọc, cờ, lọng, xa rải xuống thế giới Ta bà. Các vật rải đó, từ mười phương đến ví như mây đùn, biến thành một bức màn báu trùm khắp không gian, phía trên chư Phật. Bấy giờ, thế giới mười phương thông suốt với nhau, không gì ngăn ngại, quốc độ chư Phật trở thành “Pháp giới không hai”.
Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ tát bậc thượng hạnh rằng: “Sức thần thông của chư Phật vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn như thế. Nếu ta dùng sức thần thông ấy mà nói bày công đức của kinh Diệu Pháp Liên Hoa để lưu truyền về sau, thì dầu có trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức kiếp cũng chẳng nói hết. Tóm lại tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả kho tàng bí yếu của Như Lai, tất cả những điều hết sức thâm sâu của Như Lai đều được tuyên bố, bày giải, nói rõ trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Cho nên, sau Như Lai diệt độ, các ngươi phải một lòng thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, tu hành đúng theo lời kinh, hoặc chỗ nào có quyển kinh Pháp Hoa, bất luận nơi đó là: vườn, rừng, dưới cội cây, phòng chư tăng, nhà người thế tục, chỗ thờ Phật, núi hoang, đồng trống thì nên dựng tháp cúng dường. Phải biết chỗ có kinh đó là: đạo tràng, là nơi chư Phật được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là nơi chư Phật chuyển Pháp luân, là nơi chư Phật nhập Niết bàn.
Để lập lại nghĩa vừa nói, Thế Tôn nói một bài kệ.
THÂM NGHĨA
Như Lai thần lực là sức thần Như Lai.
Nói “sức thần Như Lai” là nói cái sức nhiệm mầu huyền diệu, sự giác ngộ chân lý tận cùng, sự giải thoát cứu cánh của con người đạt đến đỉnh cao trí tuệ. Sức thần Như Lai là kết quả của Giới, của Định, của Tuệ mà mọi người đệ tử Phật ai cũng có thể tu hành và thành tựu được sức thần đó. Cho nên, sức thần Như Lai không được hiểu lầm với “sức thần củaNhư Lai”. Bởi vì, nếu là sức thần “của Như Lai” thì mọi người không hy vọng nhờ cậy được gì. Phật “biểu diễn” sức thần là nhằm nhắc nhỡ cho hành giả Pháp Hoa và đề cao về tri kiến Phật của những người “Nhập Phật tri kiến” là thế đấy. Đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, thể nhập “Phật tri kiến”, dùng sức tri kiến nầy mà quán sát thế giới mười phương, thì thánh phàm không còn gì ngăn cách, chúng sanh và Phật đều thấy suốt được nhau trong một pháp giới “nhất chân, bất nhị”.
Bằng tri thức của con người, qua quá trình tu tập Giới – Định – Tuệ, con người có thể đạt đến sức thần Vô thượng. Thể hiện khả năng đó, Thế Tôn ở trước Bồ tát, Bát bộ, Thiên Long và tứ chúng hiện sức thần. Bày tướng lưỡi rộng dài đến cõi trời Phạm Thế. Tất cả lỗ chân lông phóng ra vô lượng, vô số hào quang đủ sắc màu, khắp soi khắp thế giới mười phương chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, có cả vô lượng phân thân Phật Thích Ca và chư Phật vị lai đều hiển hiện đồng thời. Sức Thần Như Lai là thế đấy.
Vô lượng hằng sa Bồ tát “tùng địa dũng xuất” phát nguyện thọ trì truyền bá kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, sau Phật nhập diệt độ, điều phát nguyện đó rất chánh đáng. Thế tại sao Phật chẳng đề cập, chẳng nói năng gì ?
Sự kiện nầy có thể hiểu qua hai ý:
- Theo tập quán thông lệ của Phật, khi có người tác bạch cúng dường hay thỉnh nguyện điều chi, nếu chấp nhận thì mặc nhiên không nói, không chấp nhận bấy giờ đức Phật mới nói lý do.
- Chấp nhận bằng lối “mặc nhiên” ở đây còn có ý nghĩa sâu xa, tuy không nói mà nói rất nhiều. Rằng: “Bồ tát các ông chẳng những nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, tùy hỉ kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng ngữ ngôn văn tự mà còn phải dẫn dắt chúng sanh đến chỗ ngôn vô ngôn ngôn, hành vô hành hạnh, nghĩa là nói bằng cách nói không lời, hành bằng cái hạnh vô hành nữa!
Lời nói của Như Lai là “chân chính”, là “thành thực”, lời nói trước sau như một, “lời nói không có ý xấu dối gạt” chúng sanh. Lời nói được đảm bảo bằng chân lý, có giá trị trùm khắp ba ngàn thế giới đại thiên. Như Lai hiện bày “tướng lưỡi rộng dài” (Quảng trường thiệt tướng là một trong 32 tướng tốt của đức Phật) để khẳng định với tất cả chúng sanh điều đó.
Hướng dẫn chúng sanh tu hành phương cách nào có kết quả tốt nhất:
Hãy tu cách quán niệm âm văn. Hãy niệm: Oai âm vương Phật, Diệu âm Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát mà đức Phật sẽ dạy kỹ sau nầy.
Bởi vì:
Phật xuất Ta bà giới…
Thanh tịnh tại âm văn…
Phật Thích Ca và vô lượng vô số phân thân Phật, sau khi thu hoàn tướng lưỡi, cùng một lúc tằng hắng và khảy móng tay. Đó là cách trả lời, đồng thời là cách hướng dẫn cho vô lượng Bồ tát về công tác giáo hóa chúng sanh ở cõi Ta bà đó.
Chư Thiên và các hạng chúng sanh ở các cõi nước trong mười phương, hướng về cõi Ta bà tán thán Phật, tán thán Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa là rất đúng thời. Bởi vì sức thần Phật đến đây đã viên mãn. Từ trí tuệ nhận thức thế giới, phiến diện có đối tượng “năng”, “sở” hiển nhiên, từ phóng hào quang soi sáng nhận thức thế giới toàn diện, “pháp giới nhất chân”, “bất nhị”. Đó là quá trình tiến triển, lên tột đỉnh của con đường xoáy ốc rồi. Cho nên tất cả chư Thiên chấp tay hướng về cõi Ta bà niệm:
“Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!”
Chỉ có kinh Pháp Hoa tuyên bày nói rõ tất cả thần lực Như Lai, tất cả tạng bí yếu Như Lai, tất cả việc sâu thẳm Như Lai. Cho nên, Bồ tát Thượng Hạnh….các ông hãy thọ trì, đọc tụng, như thuyết mà tu hành. Đức Phật nói tiếp:
Chỗ nào có quyển kinh nầy nên dựng tháp cúng dường. Chỗ đó là đạo tràng, các đức Phật ở đó mà được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, các đức Phật ở đó mà chuyển pháp luân, các đức Phật ở đó mà nhập Niết bàn. Còn người nào tu học kinh nầy, thực hành đúng như lời kinh, nên chỉ người đó mà nói rằng:
“Ngài là Phật!”
*****
PHẨM 22
CHÚC LỤY
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ tòa đứng dậy, hiện sức thần lớn, dùng tay mặt xoa đầu Vô lượng đại Bồ tát mà nói rằng:
“Trong vô lượng trăm ngàn muôn ức A tăng kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được nầy nay đem giao cho các ngươi, các ngươi nên hết lòng truyền bá để đem lại sự ích lợi cho nhiều người”.
Đức Phật ba phen xoa đầu các Bồ tát và ba phen lập lại câu nói trên.
Như Lai có từ bi lớn, không tham tiếc cũng không có điều sợ sệt, năng cho chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sanh, các ngươi nên thọ học theo pháp của Như Lai, chớ nên tham tiếc. Đời sau, nếu có trai lành gái thiện nào tin trí tuệ Như Lai thì ngươi nên vì những người ấy mà diễn nói kinh Pháp Hoa, để họ nghe biết tu hành, thành tựu được Phật tuệ. Nếu gặp hạng chúng sanh không tin lãnh lời kinh, thì nên dùng pháp khác trong các giáo pháp thâm diệu của Như Lai mà chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng. Làm được như thế là các ngươi có báo ân Phật rồi vậy.
Khi nghe Phật nói xong, các Đại Bồ tát đều cảm thấy sự vui mừng lan khắp thân thể. Lòng thêm cung kính, các Bồ tát nghiêng mình cúi đầu, chấp tay hướng Phật đồng bạch: “Chúng con sẽ làm đầy đủ theo lời Thế Tôn dạy, kính xin Thế Tôn đừng lo nghĩ nữa!”
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca truyền cho các phân thân Phật đã từ mười phương đến, đều trở về nước mình và nói rằng:
“Chư Phật mỗi vị tùy chỗ an trú của mình mà trở về bổn độ, tháp của Phật Đa Bảo hoàn nguyên bản vị”.
Trong lúc Phật nói, mười phương vô lượng phân thân Phật đang ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, cùng Phật Đa Bảo với vô biên vô số Bồ tát như Xá lơi phất v.v…hàng Thanh Văn, bốn chúng và tất cả thiên, nhân, A tu la, nghe lời Phật nói đều rất vui mừng.
THÂM NGHĨA
Chúc lụy có nghĩa là dặn dò, ủy thác, là giao phó.
Trước khi chết, cha gọi các con dạy bảo những điều đạo đức cần có để sống ở đời. Trò sắp xa thầy, thầy truyền đạt cho những món nghề tâm huyết sâu xa trong học vấn…Ở đây Phật dặn dò ủy thác cho các Bồ tát “Phật sự” trọng đại , để lợi lạc chúng sanh. Ý nghĩa chúc lụy đại để giống lời cha, lời thầy dạy cho con, cho trò trước khi xa cách.
Bồ tát tâm nào cũng ở trong Phật tâm. Bồ tát hạnh nào cũng phát xuất từ Phật hạnh, cho nên Bồ tát dù đông vô lượng, nhưng vẫn ở trong “tầm tay” Phật mà thôi. Đó là ý nghĩa “Phật hiện sức thần lớn” xoa đảnh vô lượng Bồ tát.
Phật “chúc lụy” cho Bồ tát, những bậc thượng căn, thượng trí nên hiểu đó là câu chuyện: “lòng dặn lòng“.
Lời chúc lụy đầu tiên của Phật là ủy thác: “pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được”. Các Bồ tát phải hết lòng lưu bố cho thêm nhiều, rộng.
Qua ba phen xoa đảnh vô lượng Bồ tát, Phật nói lên lời ủy thác lần hai: Ta ở trong vô lượng trăm ngàn muôn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được nầy, nay đem phó chúc cho các ông. Bồ tát các ông phải thọ trì đọc tụng tuyên nói pháp nầy cho tất cả chúng sanh đều được nghe biết.
Nếu là pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì có gì thọ trì đọc tụng. Ở đây, Phật ba phen xoa đảnh Bồ tát dặn dò: Phải thọ trì đọc tụng mà truyền rộng thế có nghĩa là:
Pháp Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và kinh Diệu Pháp Liên Hoa là một.
Giá trị kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa ngang bằng giá trị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vậy.
Cái đại sự nhân duyên xuất thế của Phật nhằm “mang đến cho” chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên, Như Lai có lòng từ bi lớn, là thí chủ của tất cả chúng sanh, Như Lai không có lòng bỏn xẻn. Nếu có thiện nam tín nữ nào tin trí tuệ Như Lai, Bồ tát các ông phải vì họ giảng nói kinh Pháp Hoa cho họ được nghe biết, nhằm khiến cho họ được trí tuệ Phật.
Tuy vậy, cũng không nên cố chấp khư khư một mực. Nếu có chúng sanh chưa tin nổi trí tuệ Phật thì có thể nói “Pháp Như Lai” sâu mầu khác, chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng. Làm được vậy là Bồ tát các ông, báo đáp được thâm ân chư Phật.
Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin đức Thế Tôn chớ có lo. Các Bồ tát ân cần trịnh trọng nói ba lần như vậy. Điều đó có nghĩa là các Bồ tát đã hiểu kỹ rằng: Thế nào là đền đáp thâm ân chư Phật của một Bồ tát rồi. Đã biết vai trò nhiệm vụ, một Bồ tát trưởng tử Phật, phải làm gì rồi. Đã biết giá trị kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa tầm vóc ngang bằng quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi vậy.
Phật tử chúng ta thọ trì, đọc tụng, tu học Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đến đây đã biết được gì rồi nhỉ ?
*****
PHẨM 23
DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ
Lúc bấy giờ Bồ tát Tú Vương Hoa bạch Phật:
“Thế Tôn! Làm thế nào mà Bồ tát Dược Vương du hành tự tại nơi thế giới Ta bà ? Bồ tát Dược Vương có bao nhiêu ngàn muôn ức hạnh khổ khó làm ? Nguyện Thế Tôn giải nói một ít cho Thiên Long, Bát Bộ, cho các hàng Bồ tát từ nước khác đến cùng hàng Thanh Văn ở đây nghe, để tất cả đều được vui mừng” ?
Phật đáp:
Trong quá khứ cách nay vô lượng hằng sa kiếp, có Phật hiệu Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ngài có tám mươi ức đại Bồ tát, bảy mươi hằng sa đại Thanh Văn, thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, chư Bồ tát cũng sống lâu như thế. Trong nước của đức Phật ấy không có đàn bà, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A tu la v.v….cũng chẳng có các khổ nạn. Đất bằng lưu ly, mặt phẳng như bàn tay, có trồng cây báu trên có màn báu bao trùm, tràng phan, hoa báu buông thòng. Khắp nước, bình báu, lò hương dẫy đầy. Cách mỗi cây khoảng một lằn tên có một đài bằng bảy báu. Dưới những cội cây ấy, có chư Bồ tát, Thanh Văn ngồi. Trên mỗi đài trăm ức chư Thiên trỗi nhạc trời, hát múa cúng dường Phật”.
Lúc bấy giờ, đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức nói kinh Pháp Hoa cho Bồ tát Nhất Thiết Chúng sanh Hỉ Kiến, cùng các hàng Bồ tát, Thanh Văn nghe.
Bồ tát Hỉ Kiến ưa tu tập khổ hạnh, trong pháp của Phật Tịnh Minh Đức tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn 12.000 năm, được chánh định “Hiện nhất thiết sắc thân”. Bồ tát mới tự nói trong lòng: “Được chánh định nầy là nhờ nghe kinh Pháp Hoa. Vậy ta nên cúng dường Phật Tịnh Minh Đức và kinh Pháp Hoa”. Tức thời Bồ tát nhập định, trong hư không rưới các thứ hoa hương cõi trời cúng dường Phật.
Cúng dường xong, Bồ tát xuất định và tự nói trong lòng: “Tuy ta đã dùng thần lực cúng dường Phật, nhưng sao bằng lấy thân cúng dường”. Bồ tát liền uống các chất thơm, kế uống dầu làm bằng các thứ hoa thơm mãn 1.200 năm, rồi lấy dầu thơm thoa thân, dùng áo báu cõi trời quấn mình trước đức Phật Tịnh Minh Đức, rưới các thứ dầu thơm lên áo và dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Ánh sáng tỏa soi tám mươi ức hằng sa thế giới. Trong ánh sáng ấy, chư Phật đồng thời đều khen: “Lành thay! Lành thay! Như vậy mới thật là tinh tấn, mới thật là cúng dường Pháp. Các lối cúng dường khác bằng hương hoa, chuỗi ngọc v .v….đều chẳng bằng, thậm chí đem cả một nước thành quách, vợ con mà bố thí cũng chẳng bằng. Trong các lối bố thí, bố thí thân là bậc nhất”.
Nói xong, chư Phật im lặng. Lửa thân Bồ tát cháy trót 1.200 năm mới tắt.
Cúng dường Pháp xong và sau khi mạng chung, Bồ tát Hỉ Kiến phục sanh trong nước Phật Tịnh Minh Đức, phục sanh một cách bỗng nhiên, trong trạng thái ngồi kiết già. Hóa sanh xong bèn vì cha đọc bài kệ:
Đại Vương nay nên biết!
Nhờ kinh hành nơi ấy
Tức thời đặng tất cả
Chánh định trong các thân
Sau cần cố gắng hơn
Nên bỏ thân yêu mến
Dâng cúng dường Thế Tôn
Để cầu tuệ Vô thượng
Nói xong, thưa với vua cha: “Trước cúng dường Phật Tịnh Minh Đức, tôi “giải được tất cả đà la ni của tiếng nói chúng sanh”, kế lại nghe vô số kệ của kinh Pháp Hoa. Nay Phật Tịnh Minh Đức vẫn còn, tôi xin cúng dường nữa, Bồ tát bèn ngồi lên đài bảy báu, bay lên hư không, qua đến chỗ Phật Tịnh Minh Đức, làm lễ và đọc một bài kệ khen Phật:
Lạ lùng thay dung nhan
Mười phương soi ánh sáng
Tôi đã từng cúng dường
Nay lại còn thân kiến
Nói kệ xong, Bồ tát Hỉ Kiến bạch Phật Tịnh Minh Đức rằng: “Thế Tôn còn trụ thế chứ ?”. Đức Phật bảo: “Giờ diệt độ đã đến, ngươi nên sắp đặt giường đi, ta trong đêm nay sẽ nhập Niết bàn”. Phật lại nói thêm: ” Ta nay giao phó Phật pháp và Vô thượng giác cho ngươi, cho các Bồ tát và các đại đệ tử. Ta cũng giao cho ngươi ba ngàn đại thiên thế giới, bảy báu, các cây báu, đài báu và chư thiên hầu hạ. Sau khi ta diệt độ, ta cũng giao cho ngươi tất cả xá lợi của ta, ngươi nên lưu bố khắp nơi để cho đông người được xây nhiều tháp cúng dường”. Đến cuối đêm, Phật Tịnh Minh Đức nhập Niết bàn.
Bồ tát Hỉ Kiến đã dùng gỗ chiên đàn làm giàn hỏa thiêu, thâu xá lợi đựng vào 84.000 bình báu, xây 84.000 ngọn tháp cao ba thế giới.
Bây giờ Bồ tát lại tự nghĩ: Cúng dường xá lợi như thế chưa đủ. Bèn ở trước 84.000 ngọn tháp, đốt hai cánh tay được trang nghiêm bằng trăm phước, suốt 72.000 năm, khiến vô số hạng cầu quả Thanh Văn và vô lượng người phát tâm cầu Vô thượng giác đều đứng vững trong chánh định “Hiện nhất thiết sắc thân”.
Các Bồ tát, trời, người, A tu la v.v…thấy vậy đều sầu khổ buồn thương. Bồ tát ở trong đại chúng, bèn lập thệ: Ta bỏ hai tay ắt sẽ được thân Phật. Nếu quả đúng như vậy, thì xin cho hai tay ta tự nhiên trở lại, ấy là nhờ phước đức và trí tuệ thuần hậu của Bồ tát.
Đức Phật Thích Ca hỏi Bồ tát Tú Vương Hoa: “Ý ngươi nghĩ sao ? Bồ tát Hỉ Kiến thuở xưa đâu phải ai lạ, chính nay là Bồ tát Dược Vương đó. Ông ấy đã xả bỏ, bố thí, vô lượng vô số thân như thế. Này Tú Vương Hoa, ai pháp tâm muốn được đạo Vô thượng mà đốt ngón tay hay ngón chân cúng dường Tháp Phật, còn hơn người dùng nước, thành, vợ, con cùng trân bảo trong 3.000 đại thiên thế giới mà cúng dường. Còn ai dùng bảy báu trong khắp 3.000 đại thiên thế giới mà cúng dường Phật, Bồ tát, Duyên Giác, La Hán, cũng không có công đức bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa, chừng một bài kệ bốn câu.
Tú Vương Hoa, trong các dòng nước, biển là bậc nhất. Cũng thế, trong các kinh của Như Lai nói, kinh Pháp Hoa là sâu lớn hơn hết.
Trong các thứ núi, núi Tu di là bậc nhất. Trong các thứ kinh, kinh Pháp Hoa là cao hơn hết.
Trong các tinh tú, mặt trăng là bậc nhất. Trong các thứ kinh, kinh Pháp Hoa là sáng soi hơn hết.
Như mặt trời năng trừ mọi thứ tối tăm. Kinh Pháp Hoa năng phá tất cả những tối tăm của cái chẳng lành.
Trong các hàng Tiểu vương, Đại đế là bậc nhất. Trong các thứ kinh, kinh Pháp Hoa đáng tôn trọng hơn hết.
Như Đế Thích làm vua thống ngự 33 cõi trời. Kinh Pháp Hoa là vua các kinh.
Như là Phạm Thiên là cha của tất cả chúng sanh. Kinh Pháp Hoa là cha của tất cả Hiền Thánh.
Trong hàng Phàm phu, Tứ Thánh và Duyên Giác là bậc nhất. Trong tất cả các kinh do Như Lai, Bồ tát, Thanh Văn nói, Kinh Pháp Hoa là bậc nhất trong hàng chúng sanh.
Trong tất cả Thanh Văn và Duyên Giác, Bồ tát là bậc nhất. Trong tất cả các kinh, kinh Pháp Hoa là bậc nhất.
Như Phật là vua các pháp, kinh nầy là vua của các kinh.
Tú Vương Hoa! Kinh nầy có thể cứu tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh xa rời các khổ não. Kinh nầy có thể cho chúng sanh nhiều lợi ích, làm thỏa mãn những mong cầu của chúng sanh, như ao nước trong có thể làm thỏa mãn người khát nước. Như người lạnh được lửa, như trần truồng được quần áo, như đi buôn gặp người dẫn dắt, như con gặp mẹ, như muốn qua sông gặp thuyền, như bệnh gặp thầy, như tối được đèn, như nghèo được báu, như dân được vua, như hàng hải gặp biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa nầy cũng thế, có thể làm cho chúng sanh xa lìa mọi thứ thống khổ, mọi thứ bệnh tật, có thể cởi mở sự trói buộc của sanh tử.
Ai nghe được kinh nầy, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người chép, thì được công đức nhiều cho đến nỗi trí tuệ Như Lai cũng không ước tính được. Nếu chép kinh nầy mà còn dùng các thứ hoa hương, đèn dầu cúng dường, cũng được vô lượng công đức như thế.
Tú Vương Hoa! Ai nghe phẩm “Bồ tát Dược Vương Bổn Sự” này cũng được vô biên công đức. Nếu là đàn bà thì sau khi dứt báo thân, không còn trở lại làm đàn bà nữa. Năm trăm năm sau Phật diệt độ, người nữ nào nghe kinh nầy và tu hành đúng theo lời kinh dạy, khi mạng chung, được vãng sanh nơi thế giới thanh tịnh và an lạc.
Bấy giờ, các đức Phật đồng xa khen: Hay thay! Lành thay! Này thiện nam tử, ngươi có thể trong pháp của Phật Thích Ca mà thọ trì, đọc tụng, suy gẫm Kinh Pháp Hoa và nói cho người khác nghe, ngươi đặng công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng đốt được, nước chẳng làm trôi, phá được giặc ma, đánh bại quân sanh tử và diệt trừ các quân thù khác. Thiện nam tử, trăm ngàn đức Phật sẽ hộ trì ngươi, tất cả trời, người, không ai bằng ngươi, trừ Như Lai, không Bồ tát, Duyên Giác, Thanh Văn nào có trí tuệ bằng ngươi.
Ai nghe phẩm “Dược Vương Bổn Sự” này mà biết tùy hỉ khen ngợi, người đó trong đời hiện tại, miệng thường thoảng mùi thơm hoa sen, và các lỗ chân lông thường tiết mùi trầm.
Tú Vương Hoa, ta giao phó phẩm “Dược Vương Bổn Sự” cho ngươi. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ, phải đem ra truyền bá nói rộng ở cõi Diêm phù đề và đem sức thần thông mà giữ gìn, vì đây là phương thuốc hay cho người bệnh thế gian, ai bệnh mà nghe được kinh này thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Thấy ai thọ trì kinh nầy, Tú Vương Hoa nên dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người ấy và nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu quyết định sẽ trải cỏ ngồi nơi Đạo tràng, phá các ma quân, thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não…..
Lúc đức Phật nói phẩm “Dược Vương Bổn Sự” nầy có 84.000 Bồ tát được đà la ni “Giải nhất thiết chúng sanh ngôn ngữ”.
Đức Phật Đa Bảo trong tháp báu khen Tú Vương Hoa Bồ tát: Lành thay! Lành thay! Tú Vương Hoa, ngươi thành tựu những công đức không thể nghĩ bàn mới hỏi được đức Phật Thích Ca việc như thế, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
THÂM NGHĨA
Dược Vương Bồ tát Bổn Sự là sự tích xa xưa của Bồ tát Dược Vương. Mật ý của phẩm kinh nầy. Phật dạy cho chúng sanh về “một phương thuốc chúa”. Bởi vì chúng sanh cõi Ta bà lắm bệnh nguy nan. Trong đó bệnh Chấp ngã, Chấp pháp là thứ bệnh gốc sinh ra các bệnh.
* Theo các tiền bối, bắt đầu từ phẩm Dược Vương là phần Nhập Phật tri kiến. Các phẩm trước, hướng dẫn cho hiểu kỹ (ngộ) về Phật tánh. Đến đây, chỉ cách thực hành, làm cho Phật tánh thể hiện để sống trong Phật tánh ấy (Nhập Phật tri kiến).
* Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến ở vào thời Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, cách vô lượng hằng sa số kiếp xa xưa, nhưng hiện nay là Bồ tát Dược Vương đệ tử Phật Thích Ca. Đó là một dữ kiện để tìm học hiểu về một phương thuốc chúa.
* Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến Bồ tát là vị Bồ tát mà ai thấy cũng dễ thương cũng vui mừng.
Muốn thành tựu “phương thuốc chúa”, trước hết chúng ta phải là một Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến ấy.
* Tam muội: “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” của Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến được, là kết quả của quá trình tu học Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Bồ tát dám làm những hạnh khó, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành phật ở thời Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai. Chính nhờ cái vốn liếng Diệu Pháp Liên Hoa đã tu học hồi xa xưa ấy, mà nay thành một phương thuốc chúa, một Bồ tát Dược Vương trong thời hiện tại.
“Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” có nghĩa là thứ tam muội “tự tại vô ngại” trước mọi hạng người, mọi căn cơ, chủng tánh của mỗi hạng chúng sanh. Nói cách khác: thứ tam muội “như như bất động” trước ngoại cảnh.
Phải cúng dường Phật, đem tất cả những thứ thơm tho nhất, quí giá nhất trong những thứ thơm tho để cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai. Cúng dường cho thật nhiều cho thường xuyên bền bỉ. Chẳng những thế, còn cúng dường luôn cả thân mạng nữa. Uống tất cả những thơm tho quí nhất vào cơ thể, ướp tất cả những thơm tho quí nhất vào thân. Làm như vậy trải thời gian cả 1.200 năm để cho thân tâm trở thành một chất thơm tho. Sau đó tự đốt bằng sức nguyện thần thông để cúng Phật.
Cúng dường như thế là tinh tấn là “cúng dường pháp”.
Cúng dường như thế có nghĩa là cúng dường bằng sự chuyển hóa chất lượng không thanh tịnh thơm tho, chất lượng Phật ở thân tâm mình.
* Đốt. Đốt đi. Đốt nữa. Đốt mãi, đốt với thời gian dài 1.200 năm hay lâu hơn nữa cũng nên. Bởi vì “cái bản ngã” của con người khó mà diệt trừ trong một sớm một chiều. Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến phải đốt đến 1.200 năm “cái ta”, “cái bản ngã” mới hết. Còn Phật tử chúng ta ngày nay chưa được chúng sanh nào “Hỉ Kiến”, vậy phỏng độ mình phải đốt thêm bao nhiêu năm nữa mới biểu lộ sự hỉ kiến khi chúng sanh chiêm ngưỡng dung nhan.
* Chết đi cái hoàn cảnh ô trược để sống lại trong hoàn cảnh trong sạch của nhà vua Tịnh Đức. Chết đi cái tứ đại thai sanh ô trược, để sống lại trong hóa sanh tinh khiết. Đó là tiến trình phát triển của sự vật từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện lên hoàn thiện. Chúng luôn luôn phủ định lấy nhau. Bảo thủ là lạc hậu. Cố chấp là dẫm chân một chỗ.
* Trước giờ phút nhập Niết bàn (đây là đức Phật thứ 4, nhập Niết bàn, sau khi nói kinh Pháp Hoa xong) Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức phó thác tất cả Phật pháp, Bồ tát, đệ tử, bảo thọ, bảo đài, thất bảo, xá lợi v.v….cho Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến. Một đệ tử Bồ tát như thế, thảo nào Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức chẳng ủy thác chúc lụy tất cả Phật sự cho.
* Vào bàn tay Bồ tát thì nắm xương tàn (xá lợi) cũng làm nên Phật pháp rất nhiều, làm cho Phật pháp cao siêu vĩ đại. Phải làm được như thế thì sự cúng dường xá lợi mới có ý nghĩa. Công đức ở chỗ tuyên dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh, chớ tháp cao ba thế giới mà xây đến 84.000 ngôi, thì Bồ tát “vác dù quyên tởi” biết đến bao giờ thành tựu, mà thành tựu để được gì cho Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến ?
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”. (Hễ là vật chất thì hư huyển tất cả. Chừng nào thấy được cái tánh “phi vật chất” của vật chất mới thấy được Như Lai Phật).
* Thiện tâm, thiện hạnh, thiện chí như thế mà Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến chưa tự mãn với công đức của mình. Trước 84.000 tháp Bồ tát nguyện đốt hai tay “trăm phước” trang nghiêm, mà người trí hiểu là đốt đi những cặp phạm trù đối đãi: Phải Trái. Ta Người. Thân Sơ. Thương Ghét. Tốt Xấu. Trọng Khinh. Lấy Bỏ. Hơn Thua. Sang Hèn. Trí Ngu. Thành Bại.
Đốt, Bồ tát đốt mãn 72.000 năm để cúng dường cho đến “cái ta” tàn rụi mới thôi.
* Nếu đốt để hủy diệt, đốt để tàn đời thì chẳng khác gì những kẻ thất tình thất chí đã làm, chẳng có gì ích lợi cho ai. Bồ tát đốt hai tay Phải Trái để có hai tay Phước Đức Trí Tuệ. Đó là một hình thức cải tạo để mà xây dựng. Mà xây dựng cái mới, tất nhiên phải tốt đẹp hơn lên.
Cái tinh thần đó của Đại thừa Phật giáo nói lên tánh tích cực lạc quan tự tin khả năng hoán cải, chuyển hóa của chính con người, để đưa con người đến đỉnh cao của giải thoát, giác ngộ.
* Tất cả tạng bí yếu của Như Lai đều gồm chứa ở Kinh Pháp Hoa. Cho nên, đối với sông ngòi, kinh rạch, kinh Pháp Hoa là biển. Với gò nổng đồi cao, kinh Pháp Hoa là núi. Với các tinh tú, kinh Pháp Hoa là trăng. Với các vua quan, kinh Pháp Hoa là Chuyển Luân Thánh Vương. Với tam thập tam thiên, kinh Pháp Hoa là Đế Thích. Với tứ quả Thanh Văn, kinh Pháp Hoa là A la hán. Đối với các pháp, kinh Pháp Hoa là Phật.
Kinh nầy có thể cứu khổ tất cả chúng sanh. Nghe kinh nầy, người có bệnh, bệnh sẽ lành . Người sợ già, sợ chết sẽ không già không chết. Vì kinh nầy là Dược Vương là phương thuốc chúa.
“Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm âu”
(Ngại gì bọt sóng lô nhô biển
Vài áng mây thưa giữa khoảng không.)
Tinh thần bất úy đó của Tuệ Trung Thượng sĩ, chắc chắn là phát xuất từ tư tưởng của Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa nầy.
*****
PHẨM 24
DIỆU ÂM BỒ TÁT VÃNG LAI
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca, từ nơi nhục kế phóng một đạo hào quang, rồi từ giữa đôi lông mày cũng phóng một đạo hào quang rực rỡ khắp soi một trăm tám mươi ức na do tha hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Xa hơn số thế giới này, có một thế giới tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm. Tại nước ấy, có Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí đang thuyết pháp cho vô lượng vô biên Bồ tát cung kính vây quanh nghe. Hào quang lông mày của đức Phật Thích Ca soi khắp nước Tịnh Quang.
Bây giờ trong nước Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có một Bồ tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng cội đức, cúng dường gần gũi vô lượng chư Phật, cho nên đã thành tựu trí tuệ rất sâu và được nhiều thứ tam muội là: diệu tràng, pháp hoa, tịnh đức, túc vương trí, vô duyên, trí ấn, giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn, tập nhất thế công đức, thanh tịnh, thần thông du hí, huệ cự, trang nghiêm vương, tịnh quang minh, tịnh tạng, bất cộng và nhật triền. Bồ tát Diệu Âm được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa đại tam muội như thế. Thân tắm trong ánh sáng đức Phật Thích Ca, Bồ tát Diệu Âm liền bạch với Tịnh Hoa Tú Vương Trí : “Thế Tôn! Tôi sẽ sang thế giới Ta bà, kễ bái, gần gũi cúng dường Phật Thích Ca cùng ra mắt các Bồ tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng Thí, Tú Hoa Vương, Thượng Hành ý, Trang Nghiêm Vương và Dược Thượng”.
Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí nói với Bồ tát Diệu Âm: “Ngươi chẳng nên xem rẻ nước kia (thế giới Ta bà) mà tưởng là thấp kém. Này thiện nam tử, thế giới Ta bà cao thấp không bằng thẳng, dẫy đầy núi đất, núi đá và những nhơ xấu, thân phận thấp nhỏ, hình các Bồ tát cũng nhỏ như vậy, còn thân ngươi thì cao đến 42.000 do tuần, thân ta đến 680.000 vạn do tuần; thân ngươi mà còn đoan chánh bậc nhất, như thế, được trăm ngàn muôn phước làm cho hết sức sáng rỡ. Vì vậy sang đến cõi ta bà, chớ nên xem khinh, đừng sanh lòng nghĩ tưởng rằng Phật, Bồ tát cùng nhân dân cõi nước này là thấp thỏi, yếu đuối.
Bồ tát Diệu Âm bạch: Thế Tôn! Con nay qua cõi Ta bà là do sức thần Như Lai, do thần thông du hí của Như Lai, do công đức trí tuệ, trang nghiêm của Như Lai.
Lúc ấy, Bồ tát Diệu Âm không dời khỏi chỗ ngồi, thân chẳng lay động, nhập chánh định, dùng sức mạnh của chánh định, tại núi Kỳ xà quật, cách chỗ Bồ tát ngồi không xa, hóa ra 84.000 hoa sen báu, cộng bằng vàng diêm phù đàn, cành bằng bạc, nhụy bằng kim cương và đài bằng bảy báu.
Bồ tát Văn Thù thấy vậy mới bạch với đức Thích Ca: “Thế Tôn! Do đâu mà có điềm tốt này ?”. Đức Phật đáp: Đó là điềm Bồ tát Diệu Âm từ nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí muốn cùng 84.000 Bồ tát đến cõi Ta bà, để cúng dường, gần gũi, lễ lạy ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.
Bồ tát Văn Thù bạch: Thế Tôn! Bồ tát đó trồng cội lành gì, tu công đức gì mà được sức đại thần thông như thế ? Tu tam muội gì ? Cúi xin Thế Tôn nói cho chúng con biết tên tam muội đó vì chúng con muốn tu tam muội ấy để thấy được sắc tướng và oai nghi tiến, dừng tự tại của Bồ tát Diệu Âm. Khi Bồ tát tới, cúi xin Thế Tôn dùng sức thần thông làm cho chúng con thấy được Bồ tát.
Đức Thích Ca đáp: Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu, sẽ vì các ngươi mà hiện bày thân tướng của Bồ tát Diệu Âm.
Tức thời Phật Đa Bảo bảo Bồ tát Diệu Âm: “Thiện nam tử! Hãy đến đây, Văn Thù muốn thấy thân của ngươi đấy”.
Bấy giờ Bồ tát Diệu Âm, đang ẩn mặt ở nước kia, bèn cùng 84.000 Bồ tát đồng qua cõi Ta bà. Trải qua các nước, đâu đâu đất cũng chuyển động 6 cách, hoa sen bảy báu rưới như mưa, trăm ngàn nhạc trời chẳng trỗi tự kêu, mắt của Bồ tát như cánh hoa sen xanh rộng lớn, diện mạo tốt đẹp hơn trăm ngàn muôn mặt trăng hợp lại, thân sắc vàng ròng trang nghiêm bằng vô lượng công đức, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực, đầy đủ các tướng như thân bền chắc của Na la diên.
Bồ tát Diệu Âm vào đài bảy báu, bay lên hư không cách đất bảy cây đa la và cùng chư Bồ tát vây quanh, đến núi Kỳ xà quật ở cõi Ta bà. Tới nơi rồi, Bồ tát xuống đài, lấy chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn cúng dường đức Phật Thích Ca mà bạch rằng: Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí có lời hỏi thăm Thế Tôn ít bệnh, ít buồn, đi đứng thơ thới, và hoạt động trong sự an lạc không ? Bốn đại có điều hòa chăng ? Việc đời nhẫn được chăng ? Chúng sanh dễ độ chăng ? Không có nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn, phải vậy chăng ? Không còn điều bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính sa môn, tà kiến, tâm chẳng lành, năng hàng phục các ma oán chăng ? Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu và trong tháp bảy báu, có đến nghe pháp chăng ? Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí lại dặn tôi hỏi thăm Đa Bảo Như Lai có an ổn, ít buồn hay chịu đựng và ở lâu được chăng ? Thế Tôn! Tôi muốn thấy thân Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ cho tôi được thấy.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca nói với Phật Đa Bảo: Bồ tát Diệu Âm muốn ra mắt Ngài. Đức Phật Đa Bảo liền nói với Bồ tát Diệu Âm: Hay lắm! Hay lắm! Vì cúng dường Phật Thích Ca, cùng nghe kinh Pháp Hoa và thấy Văn Thù v.v…ngươi đến cõi nầy!
Lúc bấy giờ, Bồ tát Hoa Đức bạch Phật Thích Ca: Thế Tôn! Bồ tát Diệu Âm trồng cội lành gì, tu công đức nào mà có sức thần thông như thế ?
Đức Phật đáp: Thuở quá khứ có Phật hiệu Vân Lôi Âm Vương, nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên Hỉ Kiến. Suốt 12.000 năm, Bồ tát Diệu Âm dùng 10.000 thứ kỹ nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm, cúng dâng 84.000 bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó mà nay được sanh tại nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí và có sức thần như thế. Này Hoa Đức, ngươi nghĩ sao ? Diệu Âm Bồ tát thuở xưa đó, chính nay là Bồ tát Diệu Âm đây. Bồ tát Diệu Âm này đã từng cúng dường, gần gũi, vô lượng Phật, từ lâu vun trồng công đức, lại gặp hằng hà sa Phật. Này Hoa Đức, ngươi chỉ thấy thân hình Diệu Âm ở tại đây, chẳng dè Bồ tát ấy hiện các thứ thân hình, nơi nơi đều vì chúng sanh mà nói kinh điển này. Diệu Âm có thể hiện thân Phạm Vương, Đế Thích, Tự tại thiên, Đại tự tại thiên, Thiên đại tướng quân, Tỳ sa môn thiên vương, Chuyển luân thánh vương, Tiểu vương, Trưởng giả, Cư sỉ, Tể quan, Bà la môn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc hiện thân vợ tể quan, Bà la môn hoặc hiện thân trai, gái, trời, rồng, dạ xoa…người, cùng không phải loài người v.v..mà nói kinh nầy. Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và ở đâu có tai nạn, Diệu Âm đều có khả năng cứu giúp, thậm chí đến trong hậu cung vua chúa, Bồ tát cũng biến làm thân người nữ mà nói kinh nầy.
Hoa Đức, Bồ tát Diệu Âm này hay cứu độ các chúng sanh trong cõi Ta bà, hiện các thứ thân ở cõi Ta bà vì chúng sanh mà nói kinh Pháp hoa, tuy vận dụng thần thông biến hóa như thế mà trí tuệ sáng soi cõi Ta bà, khiến tất cả chúng sanh, mỗi mỗi đều được sự hiểu biết của mình, còn trong hằng hà sa thế giới mười phương cũng đều được như vậy. Nếu phải dùng hình Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát hay Phật để độ thoát chúng sanh thì Diệu Âm liền hiện ra hình ấy mà nói pháp. Thậm chí phải diệt độ để độ thoát chúng sanh thì cũng thị hiện diệt độ.
Bồ tát Hoa Đức bạch Phật: Thế Tôn! Bồ tát Diệu Âm ở trong tam muội nào có thể biến hiện ở các nơi và trong nhiều thân hình như thế ? Phật đáp: Tam muội đó gọi là: Hiện nhất thiết sắc thân.
Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ tát vãng lai này, 84.000 Bồ tát cùng đi với Bồ tát Diệu Âm đều được tam muội Hiện nhất thiết sắc thân.
Khi Bồ tát Diệu Âm cúng dường đức Phật Thích Ca và tháp Đa Bảo xong rồi trở về nước mình, các nước của Bồ tát trải qua đều chấn động, trên các mưa hoa sen báu, nhạc trời tự trổi như lúc đi. Về đến nước rồi, Bồ tát cùng 84.000 Bồ tát vây quanh đến trước Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bạch rằng: Thế Tôn Con đến cõi Ta bà làm lợi ích cho chúng sanh, đã ra mắt lễ lạy, cúng dường đức Phật Thích Ca, ra mắt tháp Phật Đa Bảo, lại gặp các Bồ tát Văn Thù, Dược Vương, Dũng Thí và cũng đã làm cho 84.000 Bồ tát này được tam muội Hiện nhất thiết sắc thân.
Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ tát vãng lai này, 42.000 người cõi nhân thiên được vô sanh pháp nhẫn, còn Bồ tát Hoa Đức được Pháp Hoa tam muội.
THÂM NGHĨA
Diệu Âm là tiếng mầu nhiệm. Diệu Âm Bồ tát được biểu trưng cho tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh. Kinh nói Diệu Âm Bồ tát ở nước Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có nghĩa là Diệu Âm Bồ tát chỉ có mặt ở thế giới “Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm”. Cũng như tiếng lòng mầu nhiệm chỉ hiện hữu ở tâm hồn trong sáng và thanh tịnh, không có phiền não cấu uế nhiễm ô.
Muốn tiếp cận, gặp gỡ liên hệ Diệu Âm, phải nhờ ánh sáng Phật soi rọi mới thấy và liên hệ được. Cũng như muốn “nghe” được tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh, phải có giác tri. Dùng ánh sáng trí tuệ giác soi rọi vào tâm (hồi quang phản chiếu) mới “nghe” được tiếng mầu nhiệm của lòng trong sạch của mình. Nếu không dùng ánh sáng trí tuệ hồi quang phản chiếu, thì tiếng mầu nhiệm của tâm dù có, cũng như không, vì người ta sẽ không bao giờ “nghe” được. Diệu Âm dù sẵn ở thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm nhưng nếu không có “ánh sáng Phật” soi rọi thì Bồ tát Diệu Âm không có điều kiện liên hệ tiếp cận với chúng sanh ở thế giới Ba bà và Diệu Âm Bồ tát có cũng như không có.
Diệu Âm Bồ tát được nhiều tam muội, xét cho tột lý thì đó là chuyện tất nhiên. Bởi như ta đã hiểu, Diệu Âm Bồ tát là biểu trưng cho tiếng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh thì còn có thứ tam muội nào ngoài chân tâm thanh tịnh ấy ? Cho nên kinh nói: “Bồ tát được trăm ngàn muôn ức hằng hà sa các đại tam muội”.
Khi chưa có ánh sáng Phật soi đến thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm, thì hai thế giới cách xa tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa cõi Phật. Nhưng khi Phật Thích Ca dùng “ánh sáng Phật” soi rọi thì thế giới Ta bà và thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm in tuồng như có một, chẳng còn cách trở bởi cự ly, cho nên Diệu Âm Bồ tát chỉ trong khoảnh khắc đã tận mặt với chúng sanh, Bồ tát và Phật ở cõi Ta bà.
Tiếng mầu nhiệm của chân tâm rất thâm sâu, xa thẳm đến nỗi dường như không có, nếu chúng sanh mê. Nhưng nó có thể đến rất nhanh, trong khoảnh khắc với ta, nếu ta có giác chiếu.
Diệu Âm dù thân tướng trang nghiêm đẹp đẽ, nhưng không nên sanh tưởng hạ liệt với Phật và Bồ tát ở thế giới Ta bà. Lời Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí dặn như thế. Bời vì Phật – Phật đạo đồng. Bồ tát phải hiểu như thế, mọi đệ tử Phật phải hiểu như thế. Vả lại, Diệu Âm qua cõi Ta bà là do sức thần Như Lai, nếu không có sức thần Như Lai thì Diệu Âm cũng không có khả năng đến. Chính Bồ tát Diệu Âm đã hiểu như thế và sự thật là như thế. Bởi vì, nếu không có “giác tâm” hồi quang phản chiếu thì tiếng lòng mầu nhiệm không có cơ hội hiện ra.
Diệu Âm sắp đến cõi Ta bà, bấy giờ cõi Ta bà trở thành đẹp đẽ. 84.000 hoa sen báu mọc lên: cộng, cánh, nhụy, gương, hạt toàn bằng vàng bạc, kim cương, chân thúc ca, các báu hòa hợp thành, để đón mời Bồ tát Diệu Âm và 84.000 Bồ tát tùy tùng sắp đến. Trên đường ngang qua, các cõi nước cũng đều có hiện tượng đẹp: Nhạc trời không trổi tự kêu, hoa sen báu tự rơi rải cúng dường Đại địa (Tâm địa) rung động sáu cách…..
Tiếng lòng mầu nhiệm đến, thì cõi lòng ta sẽ có hiện tượng hân hoan, đẹp đẽ, khinh an, thanh tịnh. Các tạp tưởng ô trược ẩn đi, những gì quý báu trong sạch, trang nghiêm, an lành sẽ đến ở lòng ta.
Phật Thích Ca biểu trưng “thỉ giác“.
Phật Đa Bảo biểu trưng “bản giác“.
Phải vận dụng cả thỉ giác và bản giác mới có thể tận mặt, thấy được Diệu Âm. Chỉ có thỉ giác thôi, chưa đủ điều kiện tương kiến. Cho nên, Phật Thích Ca phải “mời” Phật Đa Bảo hiển bày thân tướng “Diệu Âm” cho Bồ tát Văn Thù và đại chúng Pháp Hoa hải hội thấy. Sự việc đó, nhằm dạy cho Phật tử phải vận dụng bản giác và thỉ giác của mình, khi muốn tận mặt Diệu Âm, muốn “nghe” Tiếng lòng mầu nhiệm.
Cũng như chư Bồ tát “Tùng Địa Dũng Xuất” ở phẩm thứ 15, qua nghi lễ tương kiến thông thường, Bồ tát Diệu Âm liền xin Phật Thích Ca được ra mắt Phật Đa Bảo. Vì bản giác, thỉ giác là mục tiêu đạt đến, là công tác hàng đầu đối với một Bồ tát vậy.
Những lời vấn an Phật, của Bồ tát Diệu Âm, được xem như tiếng nhắc nhở của Diệu Âm, của tiếng lòng mầu nhiệm.
- Ít bệnh, ít khổ, thơ thới an vui với việc làm trong cuộc sống hằng ngày.
- Điều hòa tứ đại (điều thân).
- Nhẫn nhục việc đời (điều tâm).
- Chế ngự dễ dàng tư tưởng (chúng sanh dễ độ)
- Không nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn.
- Không bất hiếu với cha mẹ.
- Không phỉ báng sa môn.
- Không tà kiến chẳng lành.
- Hàng phục các oán thù khuấy nhiễu của ma.
- Kích khởi tâm biếng lười, hay siêng năng nghe pháp.
- Hãy sống an ổn, sống kham nhẫn, đừng đau khổ, đừng bất mãn, đừng trốn tránh sự thực ở cõi đời.
Đó là những điều phát xuất từ Diệu Âm và phải được hiểu đó là Tiếng lòng mầu nhiệm của ta, nhắc nhở cho ta những điều “ngăn dứt” và những gì nên pháp triển ở lòng mình.
Diệu Âm mà trở thành Diệu Âm Bồ tát là do nhiều đời cúng dường Phật Vân Lôi Âm. Cũng như vàng mà được thành vàng ròng là do trước đó đã nấu lọc quặng vàng. Tiếng lòng mầu nhiệm đến với ta là trước đó ta đã phải nghe những tiếng lòng tạp tưởng mà ta đã chế ngự dứt bỏ hết đi rồi.
Diệu Âm có thể hiện đủ các loại thân hình. Từ Phạm Vương, Đế Thích, Tự tại thiên, Đại tự tại thiên, thân vua lớn, vua nhỏ, thân trưởng giả, cư sĩ, quan quyền, sa môn, Bà la môn…Thiên, long, bát bộ, nhơn, phi nhơn…cho đến hậu cung của vua, Diệu Âm cũng hiện làm thân người nữ mà nói kinh Pháp Hoa.
Với chủng tánh lớn hơn, những người xuất ly tam giới, nếu cần thân Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát,, Phật, để độ được, thì Diệu Âm cũng tùy căn cơ mà hiện thân thuyết pháp hóa độ cho mỗi hạng người. Nếu cần sự hóa độ không lời, như đức nhẫn nhục, hạnh làm gương. Diệu Âm vẫn có khả năng tùy nghi độ thoát.
Nói trắng ra là những giai cấp nào, người ở giới nào, căn tánh nào, cũng sẵn có Diệu Âm. Chỉ khác nhau ở chỗ có biết khai thác hay không, để cho tiếng mầu nhiệm của cõi lòng được hiện thực hay ẩn tàng mãi mãi để rồi mai một trong tâm khảm, dầy đặc vô minh u tối!
Là Bồ tát thì lấy sự độ sinh làm sự nghiệp.
Cho nên cần có tam muội “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân“. Phải “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” mới lợi ích chúng sanh nhiều được . Cho nên 84.000 Bồ tát tùy tùng và vô lượng Bồ tát vãng lai đều được “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” tam muội.
Không có tam muội “Hiện Nhất Thiết Sắc Thân” không hoàn thành vai trò và nhiệm vụ của Bồ tát được.
Diệu Âm Bồ tát trở về thế giới Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm. Thế là cõi Ta bà không còn rực rỡ nữa. Những điềm lành, hiện tượng tốt không còn.
Ôi! Nếu ta chẳng có khả năng cầm giữ Tiếng lòng mầu nhiệm của chân tâm thanh tịnh ở với ta, thì cõi lòng của ta sẽ trở lại với bao nhiêu nhiệt não đau thương, với cuộc sống ê chề dục vọng…
Chúng ta hãy gắng mà “giữ mãi Diệu Âm” ở lại!
*****
PHẨM 25
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN
Lúc bấy giờ Bồ tát Vô Tận Ý lễ Phật bạch rằng: Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Bồ tát Quán Thế Âm tên là Quán Thế Âm.
Phật bảo: Vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang bị khổ não mà nghe Bồ tát Quán Thế Âm rồi “nhất tâm” xưng niệm danh hiệu của Bồ tát thì tất cả chúng sanh ấy đều được giải thoát khổ não.
Người nắm giữ danh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm thì nhờ oai thần của Bồ tát mà:
- Vào lửa không bị lửa thiêu.
- Chìm dưới nước, được vào chỗ cạn.
- Đi thuyền tìm châu báu trong biển lớn bị lạc vào nước quỷ La Sát sẽ thoát được nạn quỷ ấy.
- Sắp bị dao gậy chém đánh, thì dao gậy kia bị gẫy từng khúc.
- Khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn.
- Bị xiềng xích gông cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã.
- Gặp đường hiểm nạn, được thoát khỏi và không bị sợ hãi.
Lại nữa, chúng sanh nào nhiều dâm dục, nhiều giận hờn, nhiều ngu si, mà thường cung kính niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm thì được lìa dục, lìa sân, lìa si.
Này Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ.
Người nữ nào lễ bái, cúng dường Bồ tát Quán Thế Âm để cầu con trai thì được con trai phước đức trí tuệ, còn muốn cầu con gái hình tướng xinh đẹp, trồng sâu cội phước, người người kính mến.
Cung kính lễ bái Quán Thế Âm phước đức không bao giờ mất và nhiều như phước đức của người niệm danh hiệu và cúng dường sáu mươi ức hằng hà sa Bồ tát.
Vô Tận Ý bạch: Thế Tôn! Bồ tát Quán Thế Âm làm thế nào mà dạo khắp ta bà ? Sức mạnh phương tiện của Bồ tát như thế nào ?
Phật bảo: Nếu có chúng sanh quốc độ nào cần thân Phật mới độ thoát họ được, thì Bồ tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật mà thuyết pháp cho họ nghe.
Nếu cần thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, thân Phạm Cương, thân Đế Thích, thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đại Tướng Quân, thân Tỳ Sa môn, thân Tiểu vương, thân Trưởng giả, thân Cư sĩ, thân Tể quan, thân Bà la môn, thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, thân con trai, con gái, thậm chí đến thân Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, cùng không phải loài người, để độ thoát một chúng sanh của một quốc độ nào đó, thì Bồ tát Quán Thế Âm tùy trường hợp hiện thân ấy mà hóa độ.
Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứ thân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát chúng sanh, vì vậy chúng ngươi phải “nhất tâm” cúng dường. Bồ tát Quán Thế Âm còn được cõi Ta bà gọi là “Người bố thí vô úy” vì trong hoàn cảnh sợ hãi tai nạn nguy cấp, Bồ tát có khả năng làm cho hết sợ.
Vô Tận Ý bạch Phật: Thế Tôn! Con xin cúng dường Bồ tát Quán Thế Âm. Nói xong, liền mở xâu chuỗi ngọc đang đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem dâng cho Bồ tát Quán Thế Âm mà nói rằng: Xin ngài nhận món pháp thí bằng châu báu nầy.
Bồ tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa: Xin Ngài thương xót chúng tôi mà nhận cho.
Bấy giờ Phật bảo Bồ tát Quán Thế Âm: Ông nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, loài người và không phải người v.v….mà nhận chuỗi ngọc.
Vô Tận Ý Bồ tát nói một bài kệ để hỏi Phật:
“Thế Tôn đủ tướng tốt
Con nay xin hỏi Phật
Phật tử kia duyên gì
Tên là Quán Thế Âm”.
Kệ đáp:
“Vô Tận Ý nghe đây,
Hãy nghe hạnh Quán âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn”.
Ta vì ông lược nói:
Nghe danh và thấy thân
Tâm niệm không xao lãng
Hay diệt khổ ba cõi
Giả sử khởi ý hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức Quán âm kia
Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt biển lớn
Cá, rồng, quỷ các nạn
Do sức Quán âm kia
Sóng mòi dập chẳng chìm
Hoặc ở chót Tu di
Bị người xô rớt xuống
Do sức Quán âm kia
Như mặt trời trụ không
Hoặc bị người ác rượt
Rớt xuống núi kim cang
Do sức Quán âm kia
Chẳng hại đến mảy lông
Hoặc bị oán tặc vây
Đều cầm dao gia hại
Do sức Quán âm kia
Đều liền sanh lòng lành
Hoặc bị khổ nạn vua
Gia hình mệnh sắp chết
Do sức Quán âm kia
Dao liền gẫy từng đoạn
Hoặc xiềng xích cầm tù
Tay chân bị cùm gông
Do sức Quán âm kia
Tháo ra được thong thả
Trù ếm tra thuốc độc
Muốn hại chết người ta
Do sức Quán âm kia
Người làm mang hại lấy
Hoặc gặp La sát dữ
Độc long các quỷ yêu
Do sức Quán âm kia
Chúng liền không dám hại
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vút bén đáng sợ
Do sức Quán âm kia
Chạy gấp chẳng kể đường
Rắn độc và bò cạp
Phun khí độc mịt mờ
Do sức Quán âm kia
Tự khắc lui chạy hết
Mây đen sấm sét nổ
Giá tuôn mưa xối xả
Do sức Quán âm kia
Tức thời tiêu tan hết
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Mười phương các cõi nước
Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỷ, súc sanh
Sanh, lão, bệnh tử khổ
Lần lần khiến dứt hết
Quán chơn, quán thanh tịnh
Quán trí tuệ quảng đại
Quán bi và quán từ
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Quán thanh tịnh không nhơ
Trời trí tuệ phá tối
Hay phục tai gió lửa
Chiếu sáng khắp thế gian
Thể Bi ngừa sấm sét
Ý từ đám mây lành
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Kiện tụng ở chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức Quán âm kia
Oán cừu đều tan hết
Diệu âm: Quán Thế Âm
Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn hết thế gian
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Thế Âm Thánh tịnh
Với khổ não chết chóc
Làm chỗ nương cậy cho
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn vô lượng
Thế nên cần đãnh lễ.
Bấy giờ, Bồ tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật thưa rằng:
Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn với sức thần thông, đạo nghiệp tự tại nầy thì nên biết công đức của người đó không phải tầm thường.
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn nầy, trong chúng có 84.000 chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
THÂM NGHĨA
Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn thường gọi giản luợc là phẩm Phổ Môn. Phẩm kinh nầy tùy chủng tánh và trình độ kiến giải của mỗi người mà có sự nhận thức khác nhau. Vì vậy khi ứng dụng việc tu tập hành trì, mỗi người theo sự nhận thức của mình mà “tín ngưỡng”. Thế nên khó tìm một tiêu chuẩn mà nhất trí về Bồ tát Quán Thế Âm và ý nghĩa của phẩm Phổ Môn nầy.
Theo sự phân phán của Hải Ấn đại sư được nhiều bậc đa văn tiền bối tán đồng, phẩm Quán Thế Âm được liệt vào phần Nhập Phật Tri Kiến, giáo nghĩa rất thâm. Đây là pháp thực hành quán niệm dựa trên âm văn của nhĩ căn và thanh trần. Thanh trần và Âm, nhĩ căn và Văn vậy. Nhĩ căn có ba đức tánh Viên, Thông, Thường, nó đặc thù hơn các căn khác.
Ngồi một nơi yên tĩnh, mười phương có tiếng trống, cùng một lúc nghe đủ cả mười. Đó là đức Viên.
Cách vách có thể nghe tiếng. Tiếng gần tiếng xa cũng có thể nghe. Đó là đức Thông.
Có tiếng nghe đã đành, không tiếng tánh nghe vẫn có. Đó là đức Thường của nhĩ căn vậy.
“Phật xuất Ta bà giới
Thử phương chân giáo thể
Thanh tịnh tại Âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thật tùng Văn trung nhập”.
Ý nghĩa bài kệ đó, nói lên ở kinh Thủ Lăng Nghiêm về sự ưu việt của Âm văn đó.
Phương pháp quán niệm Âm văn rất là quan trọng. Tu học phẩm Quán Thế Âm Bồ tát, Phật tử chúng ta hãy gác qua tình cảm do tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt. Hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận dụng lý trí có tánh khách quan, mới có thể nhận chân giáo lý, mới có thể biết được sự thật về những điều Phật dạy chúng ta.
Ở phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát thứ 20, đã đề cập Oai “Âm” Vương Phật. Đó là đức Bổn sư đã kín đáo gợi ý, mật chỉ tiền đề cho thính chúng Pháp Hoa Hải hội về Âm Văn trong hồi ấy.
Ở phẩm 21, Như Lai thần lực, Phật mật ý chỉ bày công dụng của Âm Văn tỏ rõ hơn, qua hai sự kiện: tiếng tằng hắng và tiếng khảy móng tay, vang khắp mười phương quốc độ.
Ở phẩm 24, Diệu Âm, công dụng của Âm thanh đến đấy đã thành Diệu: Diệu Âm đến, có mặt, thì cõi Ta bà rực rỡ, trang nghiêm đẹp đẽ. Diệu Âm về, vắng tiếng, cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không còn trang nghiêm đẹp đẽ nữa.
Phẩm Quán Thế Âm thứ 25 nầy, Phật dạy cho chúng ta cách Giữ diệu âm ở lại, để cõi Ta bà xinh đẹp, rạng rỡ mãi.
Quán Thế Âm là danh hiệu “Nhân cách hóa một phương pháp tu tập”.
Quán là vận dụng cái trí năng tri, soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng, như quán tưởng, quán niệm một đối tượng nào…
Thế có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật. Ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng chúng ta.
Âm là tiếng, Âm có âm hưởng, âm ba, âm thanh đều là đối tượng của nhĩ căn.
Quán Thế Âm là quán niệm cái tiếng tăm thầm lặng mà trong như sương, trắng như tuyết, sáng chói như kim cương, nó thường xuyên liên tục không có một phút giây gián đoạn ở lòng ta.
Ở đời có thứ tiếng nào thường xuyên liên tục không gián đoạn ?
– Tiếng của tâm ta. Tiếng lòng mầu nhiệm của ta là thứ tiếng thường xuyên và liên tục không ngừng. Nó luôn luôn nói với chúng ta , nếu chúng ta để ý lắng nghe. Nó có khả năng nói ngày nói đêm, nói ở mọi nơi chốn, chỉ trừ lúc ngủ không chiêm bao.
Nhưng làm sao biết được thứ tiếng nào là mầu nhiệm ?
– Thứ tiếng có khuynh hướng tiến lên giải thoát giác ngộ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định…..được liệt vào tiếng mầu nhiệm, là diệu âm đó. Trái lại, những thứ tiếng có chất vô minh, phiền não, khổ đau như: tham, sân, si, mạn…người Phật tử phải quên, bỏ nó đi, không nên lưu lại ở ký ức mình.
Diệu Âm tức Quán Thế Âm. Quán Thế Âm tức Diệu Âm đến rồi về để cho cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không giữ được vẻ xinh đẹp, trang nghiêm nữa. Đó là Diệu Âm Bồ tát vãng lai ở phẩm trước.
Kinh nói:
“Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm…”
Nghe phẩm Quán Thế Âm, mỗi người phải đặt mình là một Vô Tận Ý Bồ tát. Phải sử dụng ý thức sâu xa vô tận, tư duy thăm thẳm tột suốt nguồn tâm, để nhận thức thâm nghĩa của kinh. Nếu sử dụng ý thức nông cạn, tư duy hời hợt, “tín ngưỡng” Quán Thế Âm như một đấng thần quyền, sẽ sa vào mê tín dị đoan, làm cho người trí khinh chê, chánh pháp từ đây mai một!
Giả sử có vô lượng chúng sanh đang gánh chịu nhiều điều khổ não mà được nghe “Hạnh Quán Thế Âm”, liền quán âm thanh đó, thì họ sẽ được giải thoát những điều khổ não. Quán niệm “âm thanh” có nghĩa là quán tiếng tâm mình, là Diệu Âm vậy.
Trọng tâm cứu khổ của Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, sự khổ tinh thần. Tất nhiên, khi giải thoát khổ tinh thần, thì thân thể lành mạnh và mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm tay. Vì vật chất không ngoài tinh thần; tinh thần không ngoài vật chất. Hai thứ ấy tác động hữu cơ. Thế thì sự cứu độ, sự ban cho của Quán Thế Âm là cứu độ, ban cho tinh thần, tinh thần những gì thuộc lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tưvà ý thức. Bồ tát sẽ không ban cho vật chất hữu vi cho chúng sanh đâu, vì làm như vậy tức là dồn đẩy chúng sanh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát. Mà Bồ tát thì không thể nào làm việc ác đức và tội lỗi đối với lương tâm mình.
Bởi vì:
“Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại…”
Kinh Bát đại Nhơn giác, Bồ tát đã thuộc nằm lòng
….”Nhơn hệ ư thê tử xã trạch, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ, thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc khởi đản khu trì, tuy hữu khổ khẩu chi hoạn tâm tồn cam phục. Đầu nê tự nịch cố viết phàm phu, thấu đắc thủ môn xuất trần La hán”.
(Dính dấp vào con đường thê tử cũng như phu tử còn nguy khổ hơn bị tù. Ở tù còn có ngày mãn hạn, chứ thê tử thì không sao có được ngày tháng rảnh rang..)
Kinh Tứ thập nhị chương, Bồ tát cũng đã thuộc kỹ
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyển, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán….”
Kinh Kim Cang Bát Nhả, Bồ tát Quán Thế Âm thì làm sao quên được
Quán Thế Âm Bồ tát còn thuộc nhiều kinh lắm, chỉ có những người trong giới:
“Đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời. Khả tích quang âm bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nải cô phụ tứ ân…”
Họ cố bóp méo sự thật về “Hạnh Quán Âm”. Họ tôn thờ và truyền bá Quán Thế Âm như một Bồ tát chuyên làm công tác “từ thiện xã hội”. Rằng Quán Thế Âm Bồ tát hứa sẽ giúp đỡ, hộ độ tất cả những gì người tín chủ muốn, miễn là “có lễ” và “thiết lễ cầu an” trước tượng Ngài, thành tâm khẩn nguyện và tụng phẩm “Phổ Môn Kinh”.
Không, không thể như vậy được. Bồ tát là bậc Đại đạo tâm, thành tựu chúng sanh. Bồ tát là bậc hữu tình đã giác ngộ. Bồ tát là bậc giác ngộ cho chúng hữu tình. Đạo lý nhân quả Phật dạy, Bồ tát đã thân chứng. Chánh tà, chơn ngụy, chánh pháp, phi pháp, với trí tuệ “hành thâm Bát nhã Ba la mật đa” không cần suy nghĩ, Bồ tát đã biết rõ hết rồi.
Thế mà người ta nói: Bồ tát là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, Ngài độ hết thảy chúng sanh vô điều kiện, chỉ cần “cúng dường”, “cầu nguyện” và tha thiết “khấn vái” Ngài. Ý nghĩa nông cạn đó, việc làm không lý trí đó, với người trí, quả là sự bôi nhọ, sự sĩ nhục nặng nề đối với một Bồ tát “Đẳng Giác Quán Thế Âm”.
Muốn hiểu Bồ tát Quán Thế Âm cứu khổ với hình thức nào, chúng ta phải hiểu những vấn đề được biểu trưng về khổ nạn và giải thoát khổ nạn được an vui như sau:
- VỀ MẶT MẤT MÁT VÀ KHỔ NẠN:
Nạn lửa, chỉ cho tánh “thấy biết”, vì tánh thấy biết trái ý hay sanh tánh nóng nảy như lửa. Cho nên về lửa có: Lửa giận tức. Lửa dâm dục. Lửa bất mãn, bất bình. Lửa hận não nung đốt tâm can.
Nạn nước, chỉ cho tánh “nghe biết”, vì nếu nghe tiếng đàn giọng huyễn, dễ bị cuốn trôi, nhận chìm trong nhục dục khổ đau. Tánh luyến ái nặng nề, cũng được ám chỉ một hình thức cuốn trôi, nhận chìm của nước.
Quỷ la sát, ám chỉ những kẻ độc ác, hung bạo giết người.
Dao gậy, ví cho sức tác hại của sáu căn xúc đối với sáu trần, sanh ra sự đau khổ như cắt, như đánh.
Ma quỷ, chỉ sự cám dỗ của tham, sân, si, mạn, nghi, giải đãi, thùy miên, phóng dật, hôn trầm….
Gông cùm xiềng xích, biểu trưng cho sự mê mờ tối tăm vì những thứ đó làm cho con người mất tự do tự tại, kìm hãm sức phát triển về thể xác lẫn tinh thần.
Giặc cướp, ám chỉ những hành động sai quấy tội lỗi. Do đó, mất sạch công đức lành ví như bị giặc cướp hết sạch của cải.
Nói chung, tất cả những từ có tính cách tác hại, gây đau khổ, mất mát ở phẩm Phổ Môn đều phải được hiểu: Là những tác động tâm lý thuộc loại “tâm sở bất thiện“. Không được hiểu đó là sự kiện “cụ thể” ở ngoại cảnh trước mắt. Hiểu trái lại thì nó trở thành chuyện mê tín hoang đường.
- VỀ MẶT ĐƯỢC VÀ AN VUI
Thất bảo là vàng bạc, lưu ly v.v..biểu trưng thất thánh tài: tín, giới, văn, tàm, quý, niệm, định, xã.
Của báu, biểu trưng tất cả công đức lành.
Con trai, biểu trưng trí tuệ và giác ngộ
Con gái, biểu trưng phước đức và giải thoát.
Ngoài ra, tất cả những từ mang tính cách “lành mạnh” và “an vui” trong phẩm kinh nầy, phải được hiểu là: Phước đức, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến thuộc loại “tâm sở thiện“. Tóm lại, “tâm sở thiện hay bất thiện” cũng được hiểu đó là cách nói về biểu trưng. Vì lẽ Quán Thế Âm là pháp tu để “Nhập Phật tri kiến” chớ không phải là một thần thánh để nguyện cầu.
Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong 28 phẩm kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đưa vào đây một Bồ tát chuyên làm công tác xã hội tầm thường như thế, thì quả là phỉ báng Thế Tôn lắm vậy.
Người cúng dường và thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ tát, cốt để được định tuệ, để trở về với tâm thanh tịnh, giải thoát giác ngộ của mình. Người quán niệm tiếng lòng mầu nhiệm của mình thì người đó có được định tuệ và sống với tâm thanh tịnh giải thoát giác ngộ. Vì vậy, thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ tát và thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm thôi, hai công đức bằng nhau không khác, vì mục đích đạt đến ngang nhau.
Đáp câu hỏi của Vô Tận Ý Bồ tát, Quán Thế Âm vân du khắp Ta bà với hình thức nào.
Thế Âm thường trực ở trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh trong 10 pháp giới thánh phàm. Chúng sanh nào cần cứu độ thì Thế Âm dùng thân đó mà thuyết pháp hóa độ. Vì Thế Âm là “tiếng lòng thường trực” của tất cả chúng sanh vậy.
Pháp Quán Thế Âm là thứ pháp thí cho chúng sanh vô úy (không sợ). vì quán niệm Thế Âm nhất tâm thanh tịnh, thì chẳng còn gì đáng sợ nữa, kể cả sự chết, hành giả cũng xem đó là việc rất bình thường. Bình thường vì đó là quy luật, là chân lý tất yếu, tất nhiên.
Giác ngộ vô thượng không có gì cao xa và bí ẩn cả.
Người giác ngộ là người hiểu rõ, nắm trọn quy luật của thiên nhiên vũ trụ, rồi sống đúng theo quy luật đó, để cuộc sống khỏi bất mãn, khỏi khổ đau, mà kinh điển gọi là sống theo “chân lý”. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật có ông nào trường sanh bất tử đâu. Thế mà cái chết của các Ngài được gọi là “Niết bàn” là “thoát ly sanh tử”. Còn phàm phu chỉ là chết mà gọi là “sanh tử luân hồi”, “ưu bi khổ não”. Nguồn gốc do đâu ? Do chấp cái “Ta” và cái “của ta”. Khởi niệm chấp là trái chân lý, trái quy luật thiên nhiên vũ trụ. Gốc khổ phát sanh từ ý niệm chấp thủ của con người, là “vô minh nghiệp tướng”.
Quán Thế Âm là “nhân”, “bổn giác” và “thỉ giác” là quả. Bổn giác, thỉ giác mới là mục tiêu cứu cánh của tu pháp quán niệm Thế Âm. Vì vậy Thế Âm Bồ tát không dám nhận “quà” của Vô Tận Ý Bồ tát cúng dường. Sau khi nghe lời Phật khuyến khích Thế Âm mới nhận, nhưng rồi tức khắc dâng lên Phật Đa Bảo Như Lai (bổn giác) và Thích Ca Mâu Ni (Thỉ giác). Vì chỉ có bổn giác và thỉ giác mới là địa vị thẩm quyền tối thượng để nhận “của báu vô giá” của tấm lòng trong trắng “Vô Tận Ý” hiến dâng.
Sắp chấm dứt thời pháp về Quán Thế Âm Trì Địa Bồ tát (tâm địa) xuất hiện tán thán biểu đồng tình. Đó là một sự kiện có ý nghĩa sâu xa! Tâm và Ý cần tiếp thu và nhận thức một cách hổ tương và đồng bộ thì hiệu quả giác ngộ giải thoát mới cao. Rằng: Hãy vận dụng tâm và ý mà quán niệm Thế Âm. Làm được vậy là Diệu Âm sẽ ở mãi nơi lòng ta. Diệu Âm không về đâu cả.
****
PHẨM 26
ĐÀ LA NI
Lúc bấy giờ Bồ tát Dược Vương đứng dậy chấp tay hướng Phật bạch rằng: Thế Tôn! Nếu có trai lành gái tốt thọ trì kinh Pháp Hoa hoặc đọc tụng thông suốt, hiểu mau hoặc biên chép thành quyển, họ được phước đức có nhiều chăng ?
Đức Phật phản vấn: Nầy Dược Vương! Giả sử có thiện nam tử, thiện nữ nhân cúng dường tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa Phật, ý ông nghĩ sao, người cúng dường chư Phật như thế phước đức họ có nhiều chăng ?
Bồ tát Dược Vương thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
Phật nói: Nếu có trai lành gái tốt nào đọc tụng, giải nghĩa và tu hành đúng như lời, dầu chỉ là một bài kệ 4 câu, công đức của người nầy còn nhiều hơn người cúng dường chư Phật vừa nói.
Lúc đó, Bồ tát Dược Vương bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay sẽ hiến cho người giảng nói kinh Pháp Hoa một bài đà la ni (thần chú) để bảo hộ cho họ. Bồ tát liền đọc bài chú:
“An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, giá lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ chuyên đế…”
Bồ tát tiếp nói: Thế Tôn! Thần chú này là của 62 ức hằng hà sa Phật nói. Ai xâm phạm hủy hoại Pháp sư coi như là xâm hủy các đức Phật vậy.
Lúc đó, đức Phật Thích Ca khen Bồ tát Dược Vương: Hay thay! Hay thay! Dược Vương, vì thương tưởng muốn bảo hộ Pháp sư mà nói bài chú, ngươi sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng sanh.
Lúc bấy giờ Bồ tát Dũng Thí bạch Phật: “Thế Tôn! Con cũng xin vì người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa mà nói đà la ni. Được chú nầy rồi, thì Pháp sư không bị Dạ xoa, La sát hoặc Phú đơn na, Kiết giá, Cưu bàn trà, ngạ quỷ tìm thấy chỗ dở của mình nữa. Nói xong, Bồ tát đọc bài chú: “Toa lệ, ma ha tao lệ, úc chỉ….” Rồi nói tiếp: “Thế Tôn! Thần chú nầy là của hằng hà sa Phật nói và cũng đều tùy hỉ. Ai xâm phạm Pháp sư tức xâm phạm chư Phật rồi vậy”.
Bấy giờ, Thiên Vương Tỳ Sa môn là vị Trời che chở cho thế gian, bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tôi cũng vì chúng sanh mà ủng hộ Pháp sư bằng đà la ni này. Liền nói bài chú: “A lê, na lê, a na lư, na lý, câu na lý”. Lại bạch: Thế Tôn! Con đã dùng thần chú để ủng hộ Pháp sư, thì con cũng tự ủng hộ người trì kinh nầy, làm cho họ được trong khoảng trăm do tuần, khỏi điều tai nạn.
Bấy giờ, Thiên vương Trì Quốc ở trong pháp hội cùng với ngàn muôn ức na do tha Càn thát bà chấp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng con cũng dùng thần chú đà la ni bảo hộ người trì kinh Pháp Hoa”. Liền nói chú: “A dà nể, dà nể, cù lợi, phù lầu tá nỉ ác đế”. Lại nói: “Thế Tôn! Thần chú này là của 42 ức Phật nói, ai xâm hủy Pháp sư cũng tức là xâm hủy các đức Phật rồi vậy”.
Bấy giờ 10 La sát cùng với bọn quỷ, cả mẹ lẫn con đều đồng bạch Phật: Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa và trừ sự khổ hoạn cho họ, còn nếu có kẻ rình tìm chỗ dở của Pháp sư thì khiến cho đừng tìm được. Nói xong, liền đọc bài chú: “Y đề, y đề vẫn, y đề lý, an đề lý….” Lại tiếp: Các dạ xoa, La sát, ngạ quỷ…..hoặc quỷ làm bệnh nóng, từ một tới bảy ngày, hay làm bệnh nóng luôn, các nam nữ, trai gái, thà trèo lên đầu chúng con, chớ không có thể làm hại pháp sư, dầu là trong giấc chiêm bao. Mười la sát và bọn quỷ liền trước Phật nói bài kệ:
Ai chẳng thuận chú ta
Não loạn người nói pháp
Thời đầu vỡ bảy phần
Như nhánh cây A lê
Như tội giết mẹ cha
Cũng như họa ép dầu
Như lường cân tráo đấu
Như điều đạt phá tăng
Kẻ nào phạm Pháp sư
Sẽ mắc họa như thế
Nói kệ xong, các nữ La sát bạch Phật: Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này, làm cho họ được an ổn, xa các sự khổ hoạn, tiêu các thuốc độc.
Phật bảo các La sát: Hay thay! Hay thay! chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, chúng ngươi được phước chẳng thể lường, huống hồ là ủng hộ người thọ trì toàn bộ và dùng mọi thứ hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, kỹ nhạc…cúng dường kinh. Này Cao đế! Các ngươi cùng quyến thuộc phải nên ủng hộ các pháp sư như thế.
Lúc Phật nói phẩm “Đà la ni” này, có 68.000 người được “Vô sanh pháp nhẫn”.
THÂM NGHĨA
Người ta thường nói đạo Phật có 84.000 pháp môn, hay nhiều hơn nữa. Hành giả có thể chọn pháp tu nào hợp ý thích của mình. Ví như một đại thành rộng lớn, thành thì một, nhưng cửa vào thành có nhiều, ai đi cửa nào tùy ý, miễn vào được thành là đến mục đích mong ước của người đi.
Giáo lý Phật giáo, vốn đã có mầm phân chia tông phái từ Ấn độ xa xưa. Đến thời kỳ Phật giáo truyền sang Trung Quốc, Đại thừa tư tưởng phát triển thạnh hành, các tông phái lại được lập ra và sự phân hóa lại càng rõ rệt thêm hơn nữa. Dù vậy, nhưng cách diễn đạt giáo lý, cách hướng dẫn tu hành, nhìn chung thì đại đồng tiểu dị nhưng cùng một mục đích là hướng dẫn con người đi vào đường giải thoát và giác ngộ.
Đặc biệt có hai giáo phái, nhìn qua như có sự đối kháng lẫn nhau. Nhưng đi sâu vào để tìm hiểu hai sòng tư tưởng của hai chủ trương, ta thấy rõ: Họ gặp nhau ở mục đích đến, chỉ khác nhau ở lộ trình đi, chung nhau ở cứu cánh, chia nhau ở phương tiện. Đó là Hiển giáo và Mật giáo.
Hiển giáo thì tận dụng ngôn ngữ văn tự, dù phải viết, phải nói vạn ngữ thiên ngôn, chừng nào sáng tỏ vấn đề, người đọc và nghe hiểu được nghĩa lý ý thú kinh điển, áp dụng chủ thuyết: “Văn nhi tư, tư nhi tu”. Hiển giáo rất chú trọng vấn đề tri thức cho người, hướng dẫn và truyền đạt giáo lý, khiến cho người nghe học và thực hành giáo lý ấy.
Mật giáo thì ngược lại, và có thể hiểu chủ trương của mật giáo qua ý thơ của một Sư Tổ Việt Nam ở Huế mà tôi được nghe đức Hòa thượng Thượng Trí hạ Thủ, cố chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Người nói cho tôi nghe và tôi được nhớ sau đây:
“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Năm nay tính lại chừng quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như“.
Có thể như vậy, mật giáo không chú trọng lý giải ngữ ngôn. Đà la ni là thứ văn tự ngữ ngôn không cần lý giải. Mật giáo chủ trương lối thực hành! “Tam mật tương ứng”. Thân mật, khẩu mật, và ý mật, nghĩa là: Thân, khẩu, ý quyện chặt không rời. Thân ngồi kiết già. Miệng tụng Đà la ni tương tục. Ý lắng nghe lời chú hoăc quán một đối tượng do hành giả pháp nguyện và hướng tâm vào. Pháp hành của hành giả trì Đà la ni là “Tam mật”
Tôi xin mở dấu ngoặc lớn ở đây: Rằng hành giả tu Mật nên để ý:
Trì Đà la ni đừng dụng ý Cầu đắc, cầu chứng, kết quả điên loạn đến với hành giả rất nhanh. Hành giả nên tâm niệm rằng: Nước trong, trăng hiện; mây tan, trời hiện; quặng hết, vàng hiện; phiền não vô minh hết, Phật tánh hiện. Bấy giờ tức thân thành Phật vậy.
Dựa trên tông chỉ Mật giáo là tam mật tương ứng, tức thân thành Phật, để luận xét ta thấy rằng trì Đà la ni nhằm dẫn dắt đưa hành giả từ “Tri kiến lập tri” lần đến “Tri kiến vô kiến” của hiện lượng trực giác và cái đích cuối cùng là “vô phân biệt trí”, thứ trí căn bản của Bồ tát Đại Trí Văn Thù.
Đà la ni là thứ văn tự ngữ ngôn, biểu trưng sự tận cùng của ngôn ngữ. Vô lượng, vô số, bất khả thuyết a tăng kỳ, hằng hà sa Phật, từ vô lượng kiếp đều sử dụng thứ ngôn ngữ nầy. Thứ ngôn ngữ nhằm để phủ định ngôn ngữ. Phải đi đến tận cùng ngôn ngữ: rời danh tự, rời nói năng, rời tư duy phân biệt. Đó là điểm đến, là mục đích cuối cùng của pháp môn tu Mật của Đà la ni, Mật giáo.
Tam mật tương ứng rồi thì có tất cả: Thập thiện nghiệp, tứ đế pháp, thập nhị nhân duyên quán. Niệm Phật tam muội, chỉ quán, lục độ, Đà la ni v.v…hàm dung thâu nhiếp vô lượng pháp môn vậy.
Đà la ni là pháp môn hành trì đem lại cho hành giả công đức vô cùng to lớn. Bậc cao như Bồ tát Dược Vương, Dũng Thí; bậc trung như Tỳ Sa môn Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương; thấp như La sát, các quỷ đều phát nguyện trì Đà la ni, lấy Đà la ni làm pháp môn tu tập, gieo giống Phật của mình.
Đà la ni, xếp vào phẩm thứ 26 của kinh Pháp Hoa, nhằm đưa hành giả Pháp Hoa lên ngang hàng với Đại Trí Văn Thù, chuẩn bị cho Đại Trí Văn Thù xuất hiện. Văn Thù và Phổ Hiền phải trùng phùng xuất hiện thì thời pháp tối thượng thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh mới đến hồi kết thúc, Đà la ni là pháp hành hiệu quả rất cao, phẩm Đà la nichuẩn bị cho hành giả Pháp Hoa đi lần đến “Tri hành hợp nhất” vậy.
*****
PHẨM 27
DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ
Lúc bấy giờ, phật bảo đại chúng. thuở xưa, cách đây vô lượng vô biên kiếp, có đức Phật hiệu Vân Lôi Âm tú Vương Hoa Trí, tại nước Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỉ Kiến.
Tại Pháp hội của đức Phật đó, có một nhà vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Đức và hai con tên là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.
Hai người con có sức thần thông lớn, có phước đức và trí tuệ, từ lâu tu tập 10 pháp ba la mật, rành cả 37 phẩm trợ đạo, lại các môn tam muội của Bồ tát như: Nhật tinh tú, Tịnh quang, Tịnh sắc, Tịnh chiếu, Trường trang nghiêm, Đại oai đức.
Lúc đó, vì muốn dẫn đường cho vua Diệu Trang Nghiêm và cũng vì lòng thương chúng sanh, Phật Âm Lôi Âm nói kinh Pháp Hoa này.
Bấy giờ, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đến chỗ mẹ ở, chắp tay thưa: “Xin mẹ đến chỗ Phật Vân Lôi Âm ngự, chúng con cũng sẽ theo hầu để gần gũi và cúng dường Phật”. Vì sao ? Vì Phật đang vì Trời, người nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên phải nghe và tin nhận.
Phu nhân bảo hai con: Cha chúng con tin theo ngoại đạo, nhiễm sâu pháp Bà la môn, các con nên qua thưa với cha chúng con để cùng nhau đồng đi.
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn thưa: Chúng con là con của Vua Pháp, sao lại sanh vào nhà tà kiến ?
Phu nhân dạy: Các con nên thương tưởng cha các con mà hiển phép thần thông biến hóa, thấy được phép ấy, ắt lòng cha con thanh tịnh, hoặc nghe lời chúng ta mà qua đến chỗ Phật.
Ngay lúc đó, hai người con, vì tưởng nhớ đến cha, bay vọt lên hư không cao bằng bảy cây đa la, hiện các món thần thông, như: đi, đứng, ngồi, nằm trong hư không, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đến chiếm hết hư không rồi hiện lại nhỏ, nhỏ lại hiện ra lớn, ẩn mất trong hư không rồi bỗng nhiên hiện ra trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất.
Thấy thần lực của con như vậy, vua cha lòng rất vui mừng, như được vật chưa từng có, bèn chắp tay hướng về phía con mà nói rằng: Thầy của các con là ai ? Các con là đệ tử của ai ?
Hai con thưa: Phụ vương nay đã tin hiểu, có thể kham phát tâm Vô Thượng Giác. Chúng con đã vì cha mà làm xong Phật sự rồi, vậy mong mẹ bằng lòng cho chúng con xuất gia tu hành ở chỗ đức Phật Lôi Âm. Nói xong, hai người lại đọc bài kệ:
Xin mẹ cho các con
Xuất gia làm Sa môn
Các Phật rất khó gặp
Cho con theo Phật học
Gặp hoa Ưu đàm khó
Gặp Phật còn khó hơn
Khỏi các nạn cũng khó,
Nên cho con xuất gia.
Mẹ liền bảo: “Cho các con xuất gia, vì Phật rất khó gặp”.
Hai con liền thưa: thưa cha mẹ, như thế thì hay lắm! Chúng con xin qua chỗ Phật Vân lôi Âm để gần gũi cúng dường. Khó cho người gặp hoa Linh Thoại, khó cho rùa một mắt, gặp bông cây nổi, gặp được Phật cũng khó như thế. Chúng ta phước đức đời trước sâu dày nên mới sanh đời này gặp Phật pháp, bởi vậy xin cha mẹ nghe chúng con mà xuất gia. Các đức Phật khó gặp, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.
Lúc đó, nơi hậu cung vua Diệu Trang Nghiêm có 84.000 người đều có thể thọ trì được kinh Pháp hoa này. Còn Bồ tát Tịnh Nhãn và Bồ tát Tịnh Tạng, vì muốn làm cho tất cả chúng sanh xa lìa các đường dữ, nên Tịnh Nhãn đã từ lâu thông đạt “Pháp Hoa Tam Muội”, và Tịnh Tạng từ vô lượng kiếp đã thông đạt môn “Ly chư ác thú tam muội”.
Phu nhân của vua được môn “Chư Phật Tập tam muội” năng biết tạng bí mật của chư Phật.
Nhờ hai con dùng sức phương tiện khéo hóa độ như thế, lòng vua tin hiểu, ưa mến Phật pháp.
Bấy giờ, nhà vua với quần thần quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhân với thế nữ nơi hậu cung, hai vương tử với 42,000 người đồng một lúc đi qua chỗ Phật Lôi Âm ở. Đến nơi rồi, tất cả đều làm lễ rồi đứng qua một bên. Phật vì vua nói Pháp, chỉ dạy điều lợi ích, vui mừng, nhà vua lấy làm vui đẹp.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân mở chuỗi trân châu giá trị trăm ngàn đang đeo ở cổ, tung rải trên đức Phật. Trong hư không, chuỗi ấy hóa thành đài báu bốn trụ, trên đài có giường báu lớn, trăm ngàn muôn thiên y phủ lên, trên đó có Phật ngồi kiết già, phóng hào quang sáng lớn. Nhà vua mới nghĩ rằng: Thân Phật ít có, đoan trang, nghiêm chỉnh hết sức đặc thù, là một sắc thân vi diệu bậc nhất.
Bấy giờ Phật Lôi Âm bảo bốn chúng: Các người thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay đứng trước ta đó chăng? Nhà vua ở trong pháp ta, làm Tỳ kheo siêng năng tu tập các pháp trợ Phật đạo, rồi đây sẽ được làm Phật, hiệu là Ta La Thọ Vương, Phật Ta La Thọ Vương có vô lượng Bồ tát và vô lượng Thanh văn.
Vua Diệu Trang Nghiêm tức thì giao nước cho em, rồi cùng phu nhân, hai người con và quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu hành.
Xuất gia rồi, trong 84.000 năm, thường tinh tấn tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa; sau đó được tam muội “Nhất thế Tịnh Công đức Trang Nghiêm”. Được tam muội rồi, liền bay lên hư không, cao bảy cây đa la mà bạch Phật: Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sư, dùng thần thông biến hóa xoay tâm tà của con, khiến con an trụ trong Phật pháp mà được thấy Thế Tôn. Hai người con ấy là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước, làm lợi ích cho con, nên đến sanh vào nhà con.
Phật Vân Lôi Âm bảo nhà vua: Đúng thế! Đúng thế! Quả như lời ông nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào trồng cội lành, thì đời đời được gặp hàng thiện tri thức hay làm Phật sự, chỉ dạy cho sự lợi ích vui mừng, khiến vào đường Vô Thượng Giác.
Đại Vương nên biết! Nhân duyên lớn nào mà giáo hóa, dìu dắt làm cho được thấy Phật, phát tâm Vô Thượng Giác thì đó là thiện tri thức.
Đại Vương! Đại Vương thấy hai người con này chăng ? Hai người ấy đã từng cúng dường 650.000 muôn ức Hằng hà sa đức Phật, thân cận cung kính chư Phật, nơi chỗ chư Phật ở, thọ trì kinh Pháp Hoa thương tưởng những chúng sanh tà kiến mà khiến cho họ trụ trong chánh kiến.
Vua Diệu Trang Nghiêm, từ trên hư không xuống, tán thán công đức Như Lai xong, liền bạch Phật: Thế Tôn! Thật là chưa từng có, pháp của Như Lai đầy đủ những công đức vi diệu làm nên Phật sự không thể nghĩ bàn, dạy răn việc làm, khiến được an ổn rất hay. Từ nay, con nguyện không còn theo “tâm hành” của mình nữa, chẳng sanh lòng tà kiến, ngạo nghễ, giận hờn”.
Thưa xong, vua làm lễ rồi lui ra.
Phật bảo đại chúng: Ý các ngươi nghĩ sao ? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, chính nay là Bồ tát Hoa Đức hiện ở trước Phật đó. Hai người con là Bồ tát Dược Vương và Dược Thượng vậy. Hai Bồ tát này đã thành tựu các công đức lớn như thế, ai mà biết danh tự của hai Bồ tát đó, thì đáng cho nhân thiên lễ lạy.
Lúc Phật nói phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự” này, có 84.000 người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở trong các [pháp “nhãn tịnh”.
THÂM NGHĨA
Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự nầy, Phật nói về chuyện tiền kiếp xa xưa của Bồ tát Dược Vương và Dược Thượng, hai con của Diệu Trang Nghiêm Vương cách đây vô lượng vô biên a tăng kỳ hằng hà sa kiếp, ở vào thời Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai.
Chuẩn bị nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, ngay ở phẩm Tựa, Phật cho đại chúng biết rằng: Cách đây vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp về trước có hai muôn đức Phật nối tiếp ra đời, cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Đức Phật rốt sau vốn là một nhà vua, trước khi xuất gia đã có 8 người con tên: Hữu Ý, Thiện ý, Vô Lượng ý, Bửu Ý, Tăng ý, Trừ Nghi ý, Hưởng ý và Pháp ý. Tám người con nghe vua cha xuất gia, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác bèn xuất gia và đều làm nên Phật sự.
Ở phẩm thứ 27, Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự sắp kết thúc thời pháp nói về kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, Phật cũng lại nói lên câu chuyện của một nhà vua nhưng ngược lại với nhà vua được giới thiệu ở phẩm Tựa là con và vợ đi tu trước, và con đã có thần thông, vua cha thấy vậy mới xuất gia theo.
Qua hai sự kiện “lịch sử” xa xưa đó, ta thấy dụng ý bố cục về thời pháp Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Ta có thể hiểu mật ý của Phật qua hai câu chuyện ‘bổn sự” đó nhằm chỉ dạy cho người đệ tử Phật rằng: Trong nước, vua là quan trọng. Trong con người, Đệ bát thức tâm vương là quan trọng.
Lật đổ, tấn phong một ông vua là phải trải qua một biến cố. Cải tạo, chuyển hóa Tâm vương cũng phải qua một biến cố “lục chủng chấn động” tức là tiền lục thức rung chuyển ở cõi đất tâm.
Ở phẩm Tựa, vua cha tu trước thành Phật, con thấy vậy xuất gia tu theo. Có nghĩa là phát tâm dũng mãnh xuất gia trước, lần lần chuyển hóa, cải tạo tiền thất thức từ từ. Ở phẩm 27, con và vợ tu trước có thần thông…vua cha thấy vậy tu theo. Có nghĩa là chuyển hóa, cải tạo tiền thất thức trước, để làm tăng thượng duyên cải tạo A lại da, chuẩn bị tiến lên quả Phật.
Hai sự kiện “lịch sử bổn sanh” lâu đời ấy chỉ cho Phật tử hai phương pháp chuyển hóa bát thức tâm vương qua hai chiều thuận nghịch. Tùy nhân duyên hoàn cảnh, mỗi người đều có thể chuyển hóa một trong hai cách, cách nào cũng thành công được.
Tịnh Nhãn biểu trưng cho nhãn thức.
Tịnh Tạng biểu trưng cho ý thức.
Nói Nhãn và Ý, ẩn lược Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân thức hàm chứa ở trong đó. như nói “Tri kiến” là gồm công dụng của 6 giác quan vậy. Tịnh Đức phu nhân biểu trưng đệ thất mạt na. Vậy Tịnh Nhãn, Tịnh Tạng và Tịnh Đức phu nhân ám chỉ cho bảy thức tâm vương trước. Diệu Trang Nghiêm Vương ám chỉ cho đệ bát A laị da.
Nói rằng Tịnh Nhãn, Tịnh Tạng hiện thần biến, có nghĩa là hai người con này đã có sự tự tại giải thoát, trong mọi triền phược khổ đau mà người thường bị hãm vây ràng buộc bởi: lửa, nước, đất, không, cao, thấp, lớn, nhỏ, trên, dưới, đi, đứng, nằm, ngồi trong cuộc sống.
Vua cha thấy sự tự tại, giải thoát của hai con mà lòng ham mộ, nghĩ rằng địa vị của một nhà vua, chỉ vì cái ta và cái của ta mà suốt cuộc đời chẳng có chút giải thoát tự do nào. Cho nên sau đó, vua giao nước cho em, rồi đi xuất gia hành đạo giải thoát.
Tâm vương mà chuyển hóa được thanh tịnh, thì tất cả tâm sở cũng sẽ được chuyển hóa theo. Vua Diệu Trang Nghiêm xuất gia theo đó 84.000 người ở hậu cung của vua cũng đều thọ trì tu học kinh Pháp Hoa thông thuộc.
Chuỗi ngọc trân châu, kim cương, vàng bạc mà sử dụng không đúng chỗ, nó trở thành nguyên nhân tai họa, đau khổ và chết chóc. Biết cởi mở, biết hiến dâng đúng thời, đúng lúc; vì giác ngộ giải thoát mà hiến dâng thì trân châu, vàng bạc trở thành như một thứ công cụ phục vụ cho Phật pháp, chói lọi ánh sáng quang minh vĩ đại, làm cho người hiến dâng thấy Phật, thấy pháp, thấy được tướng giải thoát giác ngộ ngay trước mắt.
Gặp gỡ thiện tri thức, làm tăng thượng duyên dắt dẫn cho nhau đi trên đường giải thoát giác ngộ, đó không phải là việc ngẫu nhiên. Người Phật tử phải tin như vậy. Nhưng người Phật tử cũng không được tin đó là định mệnh an bài hay sự ân sủng của một thế lực siêu nhiên. Mà đó là kết quả do ta đã gieo hạt tốt, trồng cây lành ở đời này hay đời khác.
Người thiện tri thức làm tăng thượng duyên ấy, với bản thân họ, cũng không phải chuyện ngẫu nhiên. Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với vua Diệu Trang Nghiêm rằng: “Hai người con này của Đại Vương đã đồng cúng dường 65.000 muôn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật, gần gũi, cúng dường, và thọ trì kinh Pháp Hoa, thường thương tưởng những chúng sanh tà kiến mà làm người thiện tri thức để khiến cho họ được vào chánh kiến.
Vua Diệu Trang Nghiêm xưa kia, này là Bồ tát Hoa Đức ở trước Phật đây. Còn Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng hồi đó, nay là Dược Vương và Dược Thượng Bồ tát đấy. Rõ là: Bồ tát không sợ sanh tử, chẳng ham Niết Bàn. Vì sanh tử không làm cho Bồ tát khổ đau, thì “sanh tử tức Niết bàn” vậy. Công đức tu hành, cội lành đã trồng ở vô lượng vô biên a tăng kỳ hằng hà sa số kiếp trước, thế mà, đến nay vẫn còn là Bồ tát Hoa Đức, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dược Thượng. Các Ngài không mong Niết bàn mà cũng chưa cầu thành Phật, để rồi mình sẽ được ở một cõi nước giàu đẹp, sang trọng: vàng bạc, lưu ly pha lê…các trân bảo hợp thành.
Bởi vì Bồ tát hiểu rằng:
Với một tấm lòng đầy bất mãn thì ở trên vàng bạc, lưu ly, pha lê….cũng không an vui, giải thoát và sung sướng được đâu. Phải biết đủ, chỉ có biết đủ thì dù đạm bạc, thô sơ, giản dị cũng đủ đem lại cho người ta sung sướng, mát mẻ, an vui, thoải mái và bằng lòng. Nếu đừng cắt nghĩa chữ Niết bàn với ý tham vọng mù quáng xa xôi của những người chưa hiểu được đạo Phật thì: sung sướng, mát mẻ, an vui, thoải mái và bằng lòng đó chính là Niết bàn. Có từng ấy yếu tố là có Niết bàn rồi vậy. Tuy nhiên, Niết bàn có Niết bàn hữu thượng và Niết bàn vô thượng. Điều đó tùy thuộc ở sự đoạn “hoặc” cứu cánh hay chưa cứu cánh của mỗi người.
Thảo nào, đến nay mà ba Bồ tát còn ở cõi Ta bà, không xin “bổ nhiệm” một cảnh giới đẹp đẽ cao sang nào khác.
Người mà biết danh tự của hai vị Bồ tát Dược Vương và Dược Thượng thì trời và người nên phát tâm cung kính. Vì hai Bồ tát nầy là phương thuốc chúa và phương thuốc thượng đẳng có thể cứu bệnh khổ chúng sanh trong vô lượng đời.
*****
PHẨM 28
PHỔ HIỀN, BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT
Lúc bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, cùng vô lượng vô số Bồ tát và chư Thiên Long….đến núi Kỳ xà quật cõi Ta bà, làm lễ và bạch Phật: Thế Tôn! Con ở nơi nước của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, xa nghe ở cõi Ta bà này có thuyết kinh Pháp Hoa, nên cùng vô lượng Bồ tát đến nghe lãnh, cúi mong Thế Tôn vì chúng con, nói kinh cho nghe! Sau khi Như Lai diệt độ, các trai lành gái tốt làm thế nào mà được kinh Pháp Hoa ?
Phật bảo Bồ tát Phổ Hiền: “Sau Như Lai diệt độ, thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được kinh Pháp Hoa thì trước phải thành tựu 4 pháp (hội đủ bốn điều kiện) là:
- Được chư Phật hộ niệm
2. Trồng các cội công đức
3. Vào trong chánh định
4. Phát tâm cứu tất cả chúng sanh
Bồ tát Phổ Hiền bạch Phật: Thế Tôn! Năm trăm năm về sau, trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh Pháp Hoa, con sẽ bảo hộ họ, trừ các suy tồn, hoạn nạn, làm cho họ được an ổn và khiến các loài ma quỷ đều không có dịp làm hại. Ai trong lúc đó đứng mà thọ trì đọc tụng kinh này, thì con sẽ cởi tượng trắng cùng chư Đại Bồ tát , hiện ra trước người đó để cúng dường, bảo hộ và an ủi tâm người đó, bởi lẽ phải cúng dường kinh Pháp Hoa. Nếu người đó ngồi suy gẫm nghĩa kinh, thì con cũng cởi voi trắng hiện ra cùng người ấy chung đọc tụng và làm cho họ thông thuộc, nếu có người quên mất một câu hay một bài kệ của kinh. Người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa mà được thấy thân con, thì lòng rất vui mừng, lại thêm tinh tấn và được tam muội cùng các “triền đà la ni”, “pháp âm đà la ni v.v..”
Thế Tôn! Năm trăm năm về sau, trong đời ác trược, trong hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, nếu có người cần mẫn thọ trì đọc tụng, biên chép kinh này mà muốn tu tập, thì trong 21 ngày, phải một lòng tinh tấn. Mãn 21 ngày rồi, con sẽ cởi voi trắng sáu ngà cùng vô lượng Bồ tát vây quanh, hiện ra trước người đó để nói pháp chỉ dạy sự lợi ích vui mừng và cho chú đà la ni. Được chú này rồi, thì không có loài phi phân nào có thể phá hoại được, cũng không bị nữ nhân hoặc loạn.
Bạch xong, Bồ tát Phổ Hiền đọc bài chú và tiếp thưa: Thế Tôn! Bồ tát nào nghe được chú này, phải biết đó là sức mạnh thần thông của Phổ Hiền. Ai thọ trì được kinh Pháp Hoa, thì đó là nhờ sức oai thần của Phổ Hiền. Ai thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chính, hiểu nghĩa lý và chỉ thú của kinh, đúng theo lời kinh mà tu hành, thì người đó tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng Phật sâu trồng cội lành và được chư Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép không, thì khi mệnh chung, sẽ sanh lên trời Đao lợi, được thiên nữ trổi nhạc đón rước, vui chơi khoái lạc, đầu đội mũ bảy báu. Còn ai thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa, thì khi mạng chung, được ngàn đức Phật đưa tay tiếp dẫn khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào nẽo dữ liền lên cung trời Đâu Suất được chư Đại Bồ tát và trăm ngàn muôn ức chư thiên cùng ở.
Thế Tôn! Con xin đem sức thần thông thủ hộ kinh Pháp Hoa để sau khi Như Lai diệt độ, tại cõi Diêm phù đề, làm cho kinh này lưu truyền rộng không cho đoạn tuyệt.
Lúc bấy giờ, đức Thích Ca khen: Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có khả năng hộ trợ kinh này, làm cho chúng sinh được an vui, lợi ích. Vì đã thành tựu nhiều công đức không thể nghĩ bàn, vì tâm từ bi của ông đã sâu lớn vì từ lâu xa ông đã phát tâm cầu Vô thượng giác, cho nên nay mới năng phát nguyện thần thông thủ hộ kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông mà bảo vệ người thọ trì danh hiệu của Bồ tát Phổ Hiền.
Này Phổ Hiền! Ai thọ trì, đọc tụng, sửa đổi những nhớ tưởng của mình cho chân chính, tu tập, biên chép kinh Pháp Hoa này, nên biết người ấy ắt thấy Phật Thích Ca nói ra, nên biết người ấy cúng dường Phật Thích Ca, nên biết người ấy được Phật khen ngợi, nên biết người ấy được Phật Thích Ca lấy áo trùm thân. Người như thế thì không còn trở lại ham mê những vui sướng của trần gian, chẳng ưa thích kinh sách của ngoại đạo, cũng chẳng còn vui gần gũi ngoại đạo, kẻ ác, hàng thịt, người nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, kẻ buôn nữ sắc. Người có tâm ý chân chính, có phước đức lớn. Người đó chẳng bị ba món độc tham, sân, si làm não hại. Người đó ít ham muốn, biết đủ có khả năng tu hạnh Phổ Hiền.
Phổ Hiền! Năm trăm năm về sau khi Phật diệt độ, thấy người thọ trì, đọc tụng, kinh Pháp Hoa, thì phải nghĩ người ấy chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các thứ ma, thành Vô Thượng Giác, chuyển pháp luân đánh trống pháp, thổi loa pháp, rưới mưa pháp, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử trong đám trời người.
Phổ Hiền! Ở đời sau, ai thọ trì, đọc tụng kinh này thì người đó chẳng còn ham ưa về quần áo, giường nằm, ăn uống. Nói tóm lại là không còn thiết tha với những vật chất cần cho sự sống, còn có mong ước gì thì cũng không mong ước những việc hư huyển, lại ngay trong hiện đời, được phước báo và thẳng tiến trên đường giải thoát.
Thấy người thọ trì, đọc tụng, kinh Pháp Hoa mà chê là người vô trí điên cuồng, rốt cuộc không lợi ích gì, ai phạm tội ấy sẽ có báo ứng, đời đời không mắt . Trái lại, ai cúng dường khen ngợi, thì ngay trong hiện đời được quả báo tốt.
Thấy người thọ trì, đọc tụng và vạch bày lỗi lầm của người ấy, dầu có dầu không, thì ngay trong hiện đời phải mắc bệnh cùi. Còn khinh cười thì đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ độc máu mủ, bụng thủng, thở ngắn và các bện nặng khác. Vì vậy, này Phổ Hiền, nếu thấy người thọ trì kinh nầy thì phải đứng dậy ra xa tiếp rước, như kính đón Phật vậy.
Lúc Phật nói phẩm “Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát này” có hằng hà sa Bồ tát được muôn ức đà la ni. Chư Bồ tát đông như bụi trong 3.000 đại thiên thế giới được đầy đủ hạnh Phổ Hiền.
THÂM NGHĨA
Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát được xếp vào phẩm thứ 28 cuối cùng của bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nó có ý nghĩa nghệ thuật về hình thức bố cục, có ý nghĩa sâu xa về nội dung giáo lý.
Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát, có nghĩa là khuyên hành giả Pháp Hoa phát khởi hạnh Phổ Hiền. Phổ Hiền được biểu trưng cho đức Tinh Tấn. Hạnh khắp pháp giới là Phổ. Vị gần quả Phật là Hiền.
Nếu Phổ Hiền biểu trưng cho Lý, thì Văn Thù biểu trưng cho Trí. Văn Thù là Tri thì Phổ Hiền là Hành.
Văn Thù xuất hiện giới thiệu kinh Pháp Hoa ở phần đầu, Phổ Hiền xuất hiện kết thúc kinh Pháp Hoa ở phần cuối. Cái ý nghĩa biểu trưng qua danh hiệu của hai Bồ tát, đến đây chúng ta được nhận thấy rõ ràng.
Cũng như Bồ tát Diệu Âm ở phẩm Diệu Âm, Bồ tát Phổ Hiền từ phương Đông xuất hiện, trên đường đi đến cõi Ta bà để nghe Phật giảng kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, các nước Bồ tát đi ngang qua đều rung động: Vô lượng trăm ngàn muôn ức các thứ kỹ nhạc không trổi tự kêu, hoa sen báu trổ đầy khắp đất.
Cũng vậy, với cõi đất tâm của tất cả chúng ta khi phát khởi lòng tinh tấn tu học Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa thì cõi lòng sẽ rung động biến chuyển: hiện tượng khinh an giải thoát sẽ đến với ta và cõi lòng sẽ vui tươi đẹp đẽ, nhìn đâu cũng đẹp như hoa, nghe đâu cũng êm ái, cũng vui tươi như nhạc.
Sau Phật diệt độ, đệ tử Phật muốn được Pháp Hoa tam muội, cần phải có bốn điều:
Được các Phật hộ niệm. Nghĩa là phải thắp sáng hiện hữu, giữ tâm luôn luôn ở trong trạng thái giác chiếu.
Bốn điều Phật dạy cho Bồ tát Phổ Hiền cũng tức là dạy cho Phật tử hậu lai, những ai tu hành muốn đắc Pháp Hoa tam muội.
Tu hạnh Phổ Hiền (tinh tấn) thì tất cả các loại ác ma không có cơ hội làm hại, vì Phổ Hiền đã phát nguyện: Phổ Hiền sẽ cởi bạch tượng hiện đến thủ hộ an ủi hành giả và cúng dường kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Phổ Hiền sẽ cởi bạch tượng đến nhắc cho hành giả những câu, những nghĩa lý Pháp Hoa mà hành giả quên sót.
Phổ Hiền khiến cho người thọ trì đọc tụng Pháp Hoa được thấy Phổ Hiền lòng sanh vui mừng và thêm tinh tấn. Hành giả sẽ được tam muội và các thứ “triền đà la ni” “pháp âm phương tiện đà la ni” và trăm ngàn muôn ức đà la ni khác.
Tu tập là việc làm thường xuyên, ngừa lỗi dứt ác là việc làm suốt cả cuộc đời. Tuy vậy, cũng phải ấn định mốc thời gian để hành giả tập trung sức tinh tấn, trong kỳ hạn nào đó, hợp khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, 21 ngày, 49 ngày, 80 ngày, 100 ngày hay 120 ngày chỉ là bước đi từng bước trên con đường dài đi đến giác ngộ giải thaót. Định mốc thời gian để trắc nghiệm , sức tinh tấn của mình. Nếu sức tinh tấn kiên trì, hành giả sẽ thân thấy Phổ Hiền hiện đến nói pháp cho nghe và khiến cho hành giả thành tựu Vô phân biệt trí (Phổ Hiền cho chú Đà la ni).
Phổ Hiền cho chú Đà la ni …có nghĩa là hành giả với sức tinh tấn của mình sẽ đạt đến Vô phân biệt trí.
Hành giả được Vô phân biệt trí do sức tinh tấn thọ trì, đọc tụng Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh, đó là sự kết quả của: “Tri hành hợp nhất” vậy.
Hành giả đạt đến tri hành hợp nhất và nhiệm vụ của Văn Thù và Phổ Hiền được hoàn thành. Cho nên Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh được kết thúc ở phẩm: “Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát”.
Cách bố cục của kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa nhằm hướng dẫn cho hành giả Pháp Hoa từ Tri đến Hành. Từ hành đến Chứng thể nhập tri kiến Phật. Cái dụng ý đó, đến đây hành giả nhận thấy rõ ràng hơn.
Người thực hành hạnh Phổ Hiền là người đã trồng sâu gốc rễ lành trong vô lượng vô biên các Phật. Người đó được chư Phật lấy tay xoa đầu, lấy y mà trùm cho.
Hạnh Phổ Hiền là hạnh tinh tấn trong tinh tấn. Đối với Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, tìm hiểu ý thú, ghi nhớ chân chánh, như thuyết tu hành, đó là hạnh Phổ Hiền, là Phổ Hiền Bồ tát hiện thân.
Người thọ trì, đọc tụng tu tập kinh Pháp Hoa là người thấy tánh, cho nên chẳng bao lâu thành Phật và làm tất cả việc Phật.
Chê bai khinh rẻ kinh Pháp Hoa là chê bai khinh rẻ chân lý, phủ nhận Phật tánh, chối bỏ khả năng thành Phật của mình, người đó sẽ sống đời sống hắc ám vô minh, như ô uế, hôi tanh, như người hủi lở….Người đó không bao giờ nhận thức, thấy được chân lý như mù, sống trong dày vò tà kiến, như tay chân cong quẹo, lời nói chẳng ai thích nghe, như môi sứt, răng sếu; người trí xa lánh như xa lánh kẻ lở lói hôi tanh.
Tóm lại, Chê bai kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa thì những người này luôn luôn bị dày vò đau khổ, vì sống không có ánh sáng trí tuệ, họ sẽ đau khổ triền miên như tâm trạng những kẻ cùng một lúc bị nhiều bạo bệnh liên tục hoành hành.
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ tát
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát
TRỌN BỘ
— o0o —
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-11-2004