Kinh Vu Lan
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Mục Lục
- Phần Lược Giải
- Một, Tài Liệu và Ký Hiệu
- Hai, Dịch Chủ Kinh Vu Lan
- Ba, Lược Giải Đề Kinh
- Bốn, Khái Lược Nội Dung
Ghi Sau Khi Duyệt Vu Lan
Việc tự tứ và trai tăng trong ngày Vu lan, và qua đó mà báo hiếu cha mẹ, thì không cần phải nói đến nữa. Điều đáng nói là các chùa nên tổ chức hiệp kho Phật tử trong ngày Vu lan, sau khi tự tứ và trai tăng.
Ngày nay kiỗ của mỗi nhà cũng không thể còn như xưa. Vậy khuyến khích mỗi nhà hiệp kào ngày Vu lan là điều thiết nghĩ nên làm. Có điều cũng rất nên khuyến khích đừng k mặn, hoặc ít nhất cũng đừng kằng vật sống.
Mồng 8 tháng tư, 2537. Trí Quang
Ghi Chú – Vu Lan
Kinh này dịch giải và ấn hành năm 2516 (1971). Nay chữa lại, khá nhiều.
1.1.2528 (1984)
Trí Quang
Khai Kinh
Đại từ đại bi
thương xót chúng sinh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt hàm thức,
ánh sáng tướng tốt
dùng tự trang nghiêm,
đệ tử chí tâm
qui mạng đảnh lễ.
Kính lạy đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, cùng Phật Pháp Tăng vô thượng tam bảo.
Kính lạy đức Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát.
Kính lạy tôn giả Đại mục kiền liên, cùng hết thảy liệt vị Bồ tát, Duyên giác và Thanh văn.
Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ tát (3 lần).
Bài chú Tinh túy của đại từ bi:
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm phật ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra da, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra da, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da, Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án tát điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà da, sa bà ha.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni như lai. Nam mô Thập phương đại uy đức tăng bảo. Nam mô Vu lan duyên khởi Đại mục kiền liên tôn giả.
Tụng Kinh
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế tôn
ở nước Xá vệ,
trong khu vườn rừng
Chiến thắng Thiện thí.
Khi ấy tôn giả
Đại mục kiền liên
mới thành tựu được
sáu thứ thần thông
muốn cứu cha mẹ,
đền đáp ân đức
sinh thành dưỡng dục,
nên dùng thiên nhãn
quan sát khắp cả
thế giới luân hồi,
nhìn thấy mẹ mình
sinh trong ngạ quỉ,
không có đồ ăn,
không được thức uống,
da liền với xương.
Tôn giả thống thiết,
lấy bát đựng cơm
đem hiến cho mẹ.
Bà mẹ nhận được,
tức thì tay trái
che lấy cái bát,
tay phải vốc cơm.
Nhưng mà cơm ấy
chưa vào đến miệng
đã thành than lửa,
nên không ăn được.
Tôn giả kêu lên,
khóc lóc bi thảm,
chạy về bạch rõ
với đức Thế tôn
cảnh tượng như vậy.
*
Đức Thế tôn dạy,
Đại mục kiền liên,
thân mẫu tôn giả
gốc rễ tội chướng
kết đã quá sâu,
không phải năng lực
một mình tôn giả
có thể giải cứu.
Dầu cho tôn giả
hiếu thảo khóc than
vang động trời đất,
nhưng mà những vị
thiên thần địa kỳ,
tà ma ngoại đạo,
các vị đạo sĩ
và bốn thiên vương,
cũng đều không thể
làm gì cho được.
Phải nhờ uy lực
của Thập phương tăng
mới được siêu thoát.
Hôm nay Như lai
chỉ dạy tôn giả
cách thức cứu vớt,
để cho hết thảy
những kẻ khổ nạn
cùng được siêu thoát.
*
Đại mục kiền liên,
Thập phương tăng chúng
lấy rằm tháng bảy
làm ngày tự tứ.
Ngày ấy các người
hãy vì tất cả
cha mẹ bảy đời,
cha mẹ hiện tại,
những kẻ đang ở
trong vòng khổ nạn,
mà sắm trai soạn
đủ hết mùi vị,
các thứ trái củ,
bồn chậu múc rưới,
hương dầu đèn nến,
giường có đồ nằm,
đem đồ ngon nhất
đặt vào trong bồn,
hiến cúng Thập phương
đại đức tăng chúng.
*
Chính trong ngày này,
các hiền thánh tăng
hoặc tu thiền định
ở trong rừng núi,
hoặc đã thành tựu
bốn thứ đạo quả,
hoặc thường kinh hành
dưới gốc đại thọ,
hoặc là Thanh văn
hay là Duyên giác
đủ sáu thần thông
giáo hóa tự tại,
hoặc chính những vị
Bồ tát đại sĩ
đã lên thập địa
mà lại phương tiện
hiện tướng tỷ kheo.
Tất cả qui tụ
ở trong Tăng chúng,
đồng đẳng nhất tâm
mà thọ tự tứ.
Vì có đầy đủ
giới pháp thanh tịnh,
cho nên đạo đức
của Tăng chúng ấy
sâu rộng mênh mông.
*
Ai được hiến cúng
Tăng chúng tự tứ
đã nói trên đây,
tất cả cha mẹ
cùng với bà con
trong đời hiện tại
mà đã quá vãng
thì thoát thống khổ
ở trong ba đường —
thoát được tức thì,
cơm áo tự nhiên;
cha mẹ bà con
trong đời hiện tại
mà đang sống còn
thì hưởng phước lạc,
sống lâu trăm tuổi.
Đến như cha mẹ
bảy đời quá khứ
thì sinh chư thiên,
tự tại hóa sinh
ở trong thiên giới
hoa lệ chói sáng.
*
Bấy giờ Thế tôn
qui định điều này:
Thập phương tăng chúng
trước hết chú nguyện
cho người trai chủ,
chú nguyện cho đến
cha mẹ bảy đời.
Định ý chú nguyện
rồi mới thọ thực.
Trước đó hãy đặt
mọi thứ trai soạn
trước án thờ Phật
tại chỗ trai tăng
hay trong chùa tháp,
Tăng chúng chú nguyện
rồi mới tự thọ.
*
Khi ấy tôn giả
Đại mục kiền liên
liệt vị đại sĩ
đều rất hoan hỷ.
Tiếng khóc bi thảm
của ngài Mục liên
tức thì tan biến.
Thân mẫu của ngài
ngay trong ngày ấy
thoát được thống khổ
một kiếp ngạ quỉ.
*
Tôn giả Mục liên
liền đó lại thưa,
bạch đức Thế tôn,
thân mẫu của con
đã được siêu thoát
là nhờ năng lực
công đức Tam bảo,
trong đó gồm có
uy lực Tăng chúng.
Trong thì vị lai,
hết thảy Phật tử
có thể hay là
không thể phụng hành
thắng pháp Vu lan,
cứu độ cha mẹ
trong đời hiện tại
cho đến bảy đời
bằng cách làm theo
lời đức Thế tôn
đã dạy như trên?
*
Đức Thế tôn dạy,
Đại mục kiền liên,
lời tôn giả hỏi
rất đúng và hay.
Như lai muốn nói,
tôn giả lại hỏi.
Đại mục kiền liên,
các vị tỷ kheo
hay tỷ kheo ni,
quốc vương vương tử,
đại thần tể tướng,
tam công bách quan
cùng toàn dân chúng,
ai muốn thực hành
cái đức từ hiếu,
thì trước nên vì
cha mẹ hiện tại,
kế đó nên vì
cha mẹ bảy đời
trong thì quá khứ,
đến rằm tháng bảy —
ngày Phật hoan hỷ,
ngày Tăng tự tứ —
đặt để trai soạn
đủ các mùi vị
vào bồn Vu lan,
hiến cúng mười phương
Tăng chúng tự tứ,
cầu nguyện cha mẹ
đang còn hiện tại
sống lâu trăm tuổi,
không bịnh không khổ;
cha mẹ bảy đời
trong thì quá khứ
thoát khổ ngạ quỉ,
sinh trong nhân loại
hay trên chư thiên,
phước lạc vô cùng.
Đệ tử Như lai
thực hành từ hiếu,
thì mỗi ý nghĩ
thường thường tưởng nhớ
cha mẹ hiện tại,
cho đến cha mẹ
bảy đời quá khứ.
Hằng năm cứ đến
ngày rằm tháng bảy,
đem lòng từ hiếu
ưởng nhớ song thân,
sắm bồn Vu lan
hiến cúng Phật đà,
hiến cúng Tăng chúng,
báo đáp ân đức
từ ái nuôi dưỡng
của cha của mẹ.
Những ai đã là
đệ tử Như lai,
thì phải tuân giữ
cách thức trên đây.
*
Khi ấy tôn giả
Đại mục kiền liên,
cùng với bốn chúng
đệ tử Thế tôn,
nghe lời ngài dạy
ai cũng hoan hỷ
và nguyện phụng hành.
Hoàn Kinh
Bài kinh Tinh túy của đại bát nhã
Quan tự tại đại bồ tát đã đi vào Bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt mọi khổ ách. Ngài nói, tôn giả Thu tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy. Tôn giả Thu tử, Không ấy của các pháp không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên trong Không không sắc thọ tưởng hành thức, không nhãn nhĩ tyՠthiệt thân ý, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không nhãn giới cho đến không ý thức giới, không vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không lão tử và sự diệt tận của lão tử, không khổ tập diệt đạo, không quán trí, không thủ đắc, vì không thủ đắc gì cả. Bồ tát vì y theo Bát nhã ba la mật đa nên tâm không vướng mắc, vì không vướng mắc nên không khiếp sợ, siêu thoát mộng tưởng thác loạn, cứu cánh niết bàn. Phật đà cả ba thì gian vì y theo Bát nhã ba la mật đa nên được vô thượng bồ đề. Do đó mà biết Bát nhã ba la mật đa là bài chú rất thần diệu: bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bậc mà đồng bậc, trừ được hết thảy khổ não, chắc thật, không hư ngụy. Nên tôi nói chú Bát nhã ba la mật đa. Ngài liền nói chú ấy: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.
Biển ái nước mênh mông,
sông mê sóng dồn dập,
muốn báo ơn cha mẹ,
phải niệm Phật Di đà.
Nam mô A di đà phật (30 đến 108 tiếng). Nam mô Quan thế âm bồ tát (3 đến 7 tiếng). Nam mô Đại thế chí bồ tát (3 đến 7 tiếng). Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát (3 đến 7 tiếng).
Thần chú Vãng sinh Cực lạc :
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tì, a di lị đá tất đam bà tì, a di lị đá tì ca lan đế, a di lị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha (21 lần).
Đệ tử chúng con xin thay cho cha mẹ và bà con hiện tại, thay cho cha mẹ và bà con quá khứ, thay cho hết thảy chúng sinh, nhất tâm kính lạy đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, cùng Phật Pháp Tăng vô thượng tam bảo.
Đệ tử chúng con xin thay cho cha mẹ và bà con hiện tại, thay cho cha mẹ và bà con quá khứ, thay cho hết thảy chúng sinh, nhất tâm kính lạy đức Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát.
Đệ tử chúng con xin thay cho cha mẹ và bà con hiện tại, thay cho cha mẹ và bà con quá khứ, thay cho hết thảy chúng sinh, nhất tâm kính lạy tôn giả Đại mục kiền liên, cùng hết thảy liệt vị Bồ tát, Duyên giác và Thanh văn.
Đệ tử chúng con xin thay cho cha mẹ và bà con hiện tại, thay cho cha mẹ và bà con quá khứ, thay cho hết thảy chúng sinh, nhất tâm kính lạy thắng pháp Vu lan, cùng hết thảy Phật pháp giải thoát chúng sinh.
Đệ tử chúng con xin thay cho cha mẹ và bà con hiện tại, thay cho cha mẹ và bà con quá khứ, thay cho hết thảy chúng sinh, nhất tâm kính lạy mười phương Đại uy đức tự tứ tăng chúng.
Đệ tử chúng con
hết lòng chân thành
tụng kinh Vu lan,
cúng Tăng tự tứ,
trì pháp Bát nhã,
niệm hiệu Di đà,
hồi hướng công đức
thù thắng như vậy,
nguyện cầu cha mẹ
cùng với bà con
trong đời hiện tại,
bao kiếp quá khứ,
được nhờ thần lực
bất khả tư nghị
của đức bổn tôn
A di đà phật,
của Phật Pháp Tăng
tam bảo vô thượng,
đại phóng uy quang
bí mật da trì.
Làm cho cha mẹ
bà con chúng con,
cùng với pháp giới
hết thảy chúng sinh,
bao nhiêu vọng nghiệp
nơi thân miệng ý
hết còn sức lực
gây nhân quả khổ,
ở trong đời ác
gặp ma hóa Phật,
sống trong lục đạo
Cực lạc hiện tiền.
Lại nguyện cùng nhau
đời đời kiếp kiếp
kết thành từ bi
bồ đề quyến thuộc.
Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sinh thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sinh thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sinh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.
Một, Tài Liệu và Ký Hiệu
- Hầu hết tài liệu sử dụng đều nằm trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu và Tục tạng kinh bản chữ Vạn. Ký hiệu 2 tạng ấy là Chính và Vạn. Muốn biết tên riêng của tài liệu, tra là thấy liền.
- Tài liệu chính là chính văn trong Chính 16/779 và bản dịch khác nằm ngay sau chính văn ấy. Tôi lại đọc 8 bản chú thích xưa: 1 trong Chính 39/505, 1 trong Chính 85/540, 5 trong Vạn 35/100 và 1 trong Vạn 44/369.
- Đa số trích dẫn là của các bộ A hàm. Các tài liệu khác là Cao tăng truyện (Chính 50/326-327) và Phật học nghiên cứu của Lương Khải Siêu (các bài số 5, số 6, số 3 với chú thích ở trang 7, số 14). Từ hải và Phật học đại từ điển cũng dùng không ít.
Hai, Dịch Chủ Kinh Vu Lan
Dịch chủ kinh này là ngài Pháp hộ, người được tôn xưng là Đôn hoàng bồ tát. Phạn tự thì tên ngài dịch âm là Đàm ma la sát. Người gốc Nhục chi, xưa là vùng giữa Đôn hoàng và Kỳ liên, nay là miền tây trung bộ tỉnh Cam túc và miền đông tỉnh Thanh hải. Nhục chi tuy chỉ là một quốc gia thuộc Tây vức xưa, nhưng có một thời đã là một đế quốc lớn, và rất liên quan đến Phật giáo cùng văn hóa của Ấn độ và Trung hoa. Ca nị sắc ca vương chính là người xứ ấy. Dịch chủ Pháp hộ không những đồng hương với nhà vua này, mà niên đại chỉ sau ông hơn 2 thế kỷ — Lương Khải Siêu luận chứng niên đại của ông là bách kỷ thứ 6 sau Phật niết bàn, không phải thế kỷ thứ 4. Đồng hương với ngài Pháp hộ mà có tiếng trong giới phiên dịch của Phật giáo Trung hoa là các ngài Chi lâu ca sấm và Chi khiêm.
Tiểu truyện của ngài Pháp hộ chép ngài gốc Nhục chi, họ Nhục (hoàng tộc Nhục chi), nhưng tiên nhân qua cư ngụ Đôn hoàng. Xuất gia lúc lên 8, thờ ngài Cao tòa làm thầy. Rất thông minh, ký ức cực mạnh. Bẩm tính thuần hậu, tiết tháo, chuyên tinh, chịu khổ, quyết chí, háo học, muôn dặm tìm thầy cũng không từ. Tuy nhiên, thế sự khen chê không chen được vào lòng ngài. Bấy giờ là thời đại Vũ đế nhà Tấn. Tự viện tượng tranh tuy đã có khắp cả kinh thành và thôn ấp, nhưng kinh điển đại thừa vẫn nằm bên kia Thông lĩnh. Ngài phát phẫn, quyết chí hoằng dương đại pháp, nên theo thầy vào Tây vức, đi khắp các nước, 36 ngữ văn khác nhau ngài biết được cả. Ngài mang về Trung hoa rất nhiều kinh điển Phạn tự. Từ Đôn hoàng, ngài vào Tràng an. Trên đường đi, ngài đã bắt đầu phiên dịch ra Hoa văn. Trong tổng số phiên dịch của ngài, có Chánh pháp hoa và Quang tán bát nhã. Cần cù với công việc, chỉ lấy sự hoằng pháp làm chí nghiệp, nên ngài phiên dịch suốt đời, mệt nhọc mấy cũng không từ.
Kinh điển lưu hành rộng rãi tại Trung hoa, đầu tiên, là nhờ ngài.
Cuối đời Vũ đế nhà Tấn, ngài ẩn cư trong núi. Về sau ngài dựng chùa ngoài Thanh môn của Trường an, tinh tiến hành đạo, đức hóa vang xa, tăng tín vài ngàn thờ ngài tu học. Đến đời Huệ đế nhà Tấn bôn tẩu về hướng tây, ngài cùng môn đồ tị nạn về hướng đông, đến Thằng trì thì bịnh mà mất, thọ 78 tuổi.
Sự phiên dịch của ngài Pháp hộ được ngài Đạo an phê phán như sau, “kinh sách xuất từ tay ngài Pháp hộ thì cương lĩnh chắc chắn chính xác”. Số lượng dịch phẩm của ngài, tiểu truyện nói có 165 bộ (Chính 50/327). Từ hải nói có 210 bộ. Nay tôi căn cứ mục lục Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu, thống kê số lượng dịch phẩm của ngài Pháp hộ như sau: loại A hàm có 11 thứ 11 cuốn, loại Bản duyên có 7 thứ 18 cuốn, loại Bát nhã có 1 thứ 10 cuốn, loại Pháp hoa có 3 thứ 14 cuốn, loại Hoa nghiêm có 5 thứ 19 cuốn, loại Bảo tích có 16 thứ 27 cuốn, loại Niết bàn có 4 thứ 7 cuốn, loại Đại tập có 4 thứ 21 cuốn, loại Mật giáo có 1 thứ 1 cuốn, loại Kinh tập (linh tinh, trong đó có Thiền) có 43 thứ 79 cuốn, tổng cộng 95 thứ (hay bộ) 207 cuốn. Số lượng này chắc chắn thiếu, vì không những sách xưa hay thất lạc, mà xưa nay không có Đại tạng kinh hay bản Mục lục nào thu thập hoặc liệt kê đủ hết những sách hiện còn, chưa nói những thứ đã mất. Nhìn vào số lượng kê ra ở trên, thấy ngài Pháp hộ dịch toàn kinh. Tuy nhiên, số lượng ấy cũng làm cho Lương Khải Siêu ghi vào Phật giáo đại sự biểu (dĩ nhiên của Trung hoa, phụ lục bài số 1 của sách Phật học nghiên cứu) 2 việc: năm 269 kinh Niết bàn của đại thừa bắt đầu xuất hiện do ngài dịch, năm 288 kinh Pháp hoa và kinh Bát nhã bắt đầu xuất hiện do ngài dịch.
Về niên đại của ngài Pháp hộ, theo tiểu truyện, ngài viên tịch quãng 304, năm Huệ đế nhà Tấn bôn tẩu về tây, thọ 78 tuổi. Như vậy niên đại của ngài ước định là 226-304, bách kỷ thứ 9 sau Phật niết bàn, cùng thời với Thế thân bồ tát, sau Long thọ bồ tát 2 bách kỷ và Ca ni sắc ca vương hơn 2 bách kỷ, trước các ngài Đạo an gần 1 bách kỷ, ngài La thập và ngài Pháp hiển 1 bách kỷ, ngài Huyền tráng 3 bách kỷ rưỡi. Lương Khải Siêu nói ngài bắt đầu phiên dịch từ năm 266. Điều này rất đúng với tiểu truyện nói trên đường vào Trường an ngài đã bắt đầu phiên dịch. Đại sự niên biểu của Từ hải (trang 15) ghi ngài đến Trung hoa năm 286, chỉ là ghi năm vào ở Trường an.
Lịch sử phiên dịch của Phật giáo Trung hoa rõ ràng có 3 cái mốc là Pháp hộ, La thập và Huyền tráng. Nhưng ngài Pháp hộ thuộc thời kỳ phôi thai, lại không có sự hỗ trợ của thế quyền. Cộng tác với ngài chỉ có cha con cư sĩ Nhiếp Thừa Viễn và 4 nhân vật có tiếng. Nhưng truyện tích không có một tỳ vết nào về tăng cách và nhân cách. Do đó mà bất cứ ai đọc và học kinh sách Hoa văn đều ngưỡng mộ ngài không ít. Chỉ nói, tuy đã gần hết 17 bách kỷ, mà Vu lan bồn, một bản kinh rất ngắn nhưng hằng năm, cứ đến mùa Vu lan báo hiếu, lời dịch của ngài non 1700 năm về trước, vẫn được duy nhất tụng lên, và hình ảnh của ngài lại càng hiện rõ trong niềm ngưỡng mộ của học giả Phật học, cũng đủ biết.
Ba, Lược Giải Đề Kinh
Vu lan hay Vu lan bồn là dịch âm Phạn tự. Còn có một dịch âm nữa là Ô lam bà na. Trí húc đại sư nói, Vu lan bồn dịch nghĩa là cứu đảo huyền: giải cứu cái khổ như sự bị treo ngược (Vạn 35/151B). Như vậy, Vu lan có nghĩa là bản kinh chỉ cách giải cứu cái khổ khốn cấp trong các đường dữ.
Đó là nghĩa chính, và Vu lan bồn toàn là dịch âm Phạn tự. Tuy nhiên, nhờ trùng âm, ngẫu nhiên chữ Bồn lại có cái nghĩa của chữ Trung hoa, và quan trọng là chữ ấy kinh văn dùng để nói đến dụng cụ đặt đồ hiến cúng, trong cách cứu khổ đảo huyền. Như vậy Vu lan bồn ngẫu nhiên mà có cái nghĩa bồn Vu lan. Nhưng nghĩa này chỉ phụ thuộc, dầu theo kinh văn nghĩa này khá quan trọng.
Bốn, Khái Lược Nội Dung
Nội dung kinh Vu lan có 2 phần. Phần trước là nguyên nhân và cách thức của thắng pháp Vu lan. Phần sau mang một huấn thị của Phật mà Tôn mật đại sư nói có tính chất Luật (Vạn 35/109A và Chính 39/506). Nói giản dị, phần đầu Phật chỉ dạy cách báo hiếu cha mẹ, phần sau Phật qui định Phật tử thì phải phụng hành cách ấy.
Năm, Lược Giải Kinh Văn
Như mới nói, kinh này có 2 phần lớn. Đây là phần trước nói nguyên nhân và cách thức của thắng pháp Vu lan, gồm nhiều đoạn nhỏ.
Tôi nghe như vầy:
Câu này là lời tôn giả A nan tự xưng để thuật lại kinh này. Lúc sắp nhập diệt, Phật đã dạy tôn giả để lời ấy ở đầu các kinh trong lúc kiết tập.
Như vầy là người nói, người nghe, lời nói, cử động, sự việc, không gian và thời gian, tất cả những gì được thuật lại ở dưới. Tất cả những gì ấy biểu thị pháp của Phật dạy trong một cuốn kinh, chứ không phải chỉ lời nói mới có khả năng ấy. Ấy là chưa kể lời nói có khi không quan trọng bằng hay hơn những điều khác. Thí dụ về người, kinh này nói Phật tử thì phải báo hiếu, nói báo hiếu thì đề cao trai tăng trong ngày tự tứ, nói tăng tự tứ thì đề cao tỷ kheo tăng tự tứ, nói tỷ kheo tăng tự tứ thì đề cao hạnh đầu đà, đề cao La hán và Duyên giác có lục thông giáo hóa, lại kể cả Bồ tát đại sĩ hiện làm tỷ kheo. Rồi thuật lại rằng nghe Phật dạy pháp Vu lan thì Bồ tát đại sĩ đều rất hoan hỷ. Chỉ nói về người như vậy cũng đủ thấy không kinh nào đại thừa hơn kinh này, nhất là không kinh đại thừa nào thuần nhất với Phật giáo nguyên thỉ bằng kinh này.
Một thời Thế Tôn ở nước Xá vệ, trong khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí.
Mấy câu này nói về người nói và chỗ nói kinh Vu lan. Người nói là đức bổn sư Thích ca thế tôn. Chỗ nói là khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí ở nước Xá vệ.
Thế tôn là nói về người nói. Tôi dùng chữ Thế tôn thay chữ Phật là vì Khuy cơ đại sư nói, khi giải thích chữ Phật này, rằng xét bản chữ Phạn của các kinh đều gọi đức Bổn sư là Thế tôn. Chính đức Bổn sư dạy để chữ ấy, vì chữ ấy hàm đủ các đức tính. Nhưng dịch chủ ý muốn vắn tắt nên dùng chữ Phật (Vạn 33/71B).
Chiến thắng Thiện thí là nói về chỗ nói, Xá vệ là một nước mà nay là Rapatmapet, nam ngạn sông Rahti, thuộc tây bắc bộ Ấn độ. Đời Phật, Xá vệ là quốc gia của Ba tư nặc vương, phụ hoàng của vương tử Chiến thắng. Tại Xá vệ có khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí, khu vườn rừng mà cây rừng là của vương tử Chiến thắng, đất vườn là của trưởng giả Thiện thí. Truyện kể rằng trưởng giả Thiện thí qui y Phật rồi, tìm chỗ kiến thiết tinh xá, thấy không đâu bằng khu vườn rừng của vương tử Chiến thắng, cây và suối đủ cả. Hỏi mua, vương tử thách chơi rằng lát vàng khắp đất và dày 5 tấc mới bán. Không ngờ trưởng giả làm y lời. Vương tử cảm kích, giao đất vườn phần trưởng giả, còn cây rừng phần mình, chung nhau hiến Phật. Phật dạy tôn giả A nan hãy để tên 2 người đứng chung khi nói về khu vườn rừng ấy.
Một thời Thế Tôn là Phật ở đâu cũng chỉ một thì gian ngắn, vừa đủ. Chỉ đọc 4 bộ A hàm không thôi, cũng thấy Phật du hóa luôn luôn và khắp nơi, không bao giờ ở yên một chỗ. Ngay sau mỗi lần an cư, gần ngày giải chế, ngài lại sửa y để lên đường. Phật cũng rất ít ngủ. Mỏi lưng nằm xuống là nghiêng hông bên phải, 2 chân chồng lên với nhau và tưởng đến ánh sáng. Có đêm ngài còn kinh hành dưới trời mưa lâm râm (Chính 2/362).
Nên nói thêm nữa về Phật. Phật là ngôi vị phải do 3 vô số kiếp tu tập phước trí; thân tối hậu phải đủ 32 tướng và thành Phật bằng quá trình gọi là bát tướng thành đạo; có đủ 10 đức tính biểu thị bằng 10 huy hiệu; sau hết Phật là gốc của Pháp và thầy của Tăng, kết thành tam bảo; và xuất thế để làm 5 việc: chuyển pháp luân, độ cha mẹ, đem đức tin lại cho những kẻ không có đức tin, ai chưa có chí nguyện bồ tát thì làm cho họ có, và thọ ký làm Phật cho bồ tát (Chính 2/612, 699 và 703). Do đó, muốn hiểu Phật, phải có đức tin và sự thấy biết phù hợp với cái trí không thể phá hoại (Chính 1/732). Một vài sự việc nhỏ nhặt sau đây, cũng toàn là trích trong các bộ A hàm, tạm đủ cho ta hiểu Phật như thế nào bằng tầm mức con người chúng ta. Giác ngộ rồi, Phật tuyên bố liền, rằng nếu có ai nói một cách đúng đắn để nói cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp, thì người ấy chính là ta đây – Bởi vì chính ta nói đến cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp (Chính 1/680). Lại xác định căn bản của hết thảy thiện pháp là chính 6 giác quan (Chính 2/225). Lời này, và lời trên, hay và rõ hơn câu hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh. Cũng lúc giác ngộ rồi, ngài nhìn bồ đề đại thọ đến 7 ngày không chớp mắt (Chính 2/816). Xác nhận đưa đệ tử vào pháp tuyệt đối, không phiền, không nhiệt và vĩnh cửu (Chính 1/769), minh định đối với một thực vật đang cháy mà còn không muốn nó hủy diệt, huống chi muốn hủy diệt một động vật (Chính 2/352), nên cây mà hiểu được ý Phật nói thì ngài cũng phán quyết cho biết được giải thoát như thế nào (Chính 2/240). Dạy đệ tử rằng các người ở trong Phật pháp mà vẫn vô phước là vì không săn sóc bịnh nhân. Ngài tự tay rửa trừ đồ bẩn và sửa soạn chỗ nằm cho bịnh nhân, ngăn sự làm thay của chư thiên mà bảo, khi xưa làm bồ tát, ta vì một con chim nhỏ mà không tiếc tính mạng, huống chi nay làm Phật mà ta lại bỏ một vị tỷ kheo bịnh hay sao. Rồi ngài tự tay quét phòng, giặt y, đỡ bịnh nhân dậy mà tắm rửa cho, xong, đưa lại giường, tự tay trao cho đồ ăn. Ăn xong, chính Phật rửa bát, và khuyên hãy cố mà trừ khử nguyên nhân của bịnh tật bây giờ và đời sau. Vị tỷ kheo bịnh nghe dạy chăm chăm nhìn ngài, tức thì đốn ngộ (Chính 2/766-767). Kêu gọi đệ tử hãy thương mà đừng oán ta, vì ta không thuyết pháp như thợ gốm làm đồ gốm, mà ta chỉ dẫn cho thấy những sự nghiêm trọng, cấp bách, chí khổ, và ai chân thành thì có thể vượt qua được (Chính 1/740). Con người của Phật thánh thiện đến nỗi ngoại đạo cố quan sát cả 4 tháng, thấy ăn mà khi đồ ăn chưa đưa đến sát miệng, miệng không hả ra trước (Chính 1/687). Do đó mà có kẻ chỉ ngước nhìn dung nhan của Phật cũng đốn ngộ và giải thoát (Chính 2752), và kẻ điên nhìn Phật cũng tỉnh (Chính 2/317). Còn đệ tử thì đến cư sĩ cũng tự tin rằng sẽ không còn sinh ra bởi dạ con, sống bằng khí huyết và tăng thêm mồ mả (Chính 2/152). Những chi tiết nhỏ nhặt mà trong vài mươi phút duyệt lại ghi chú cũ tôi cũng đã thấy được trên đây, cùng loại còn vô lượng sự việc nằm trong kinh điển, nhất là trong 4 bộ A hàm và Luật tạng, tập hợp lại thành đức Phật mà con người càng biết càng tôn kính.
Riêng sự hiếu hạnh của Phật, chính ngài đã nói với Ba tư nặc vương, ta cũng là thành phần loài người, cha là Chân tịnh, mẹ là Ma da (Chính 2/637). Nên ngay trong 5 công việc của Phật đã dẫn ở trên, đối với cha mẹ quan trọng đến nỗi có chỗ tách ra làm 2 mà dịch và kê như sau: chuyển pháp luân, thuyết pháp cho cha, thuyết pháp cho mẹ, hướng dẫn phàm phu lập hạnh bồ tát, và thọ ký làm Phật cho bồ tát (Chính 2/622). Năm công việc này do chính Phật tự kể ra để trả lời tôn giả Ưu tỳ ca diếp hỏi ngài, khi thấy ngài xoay người lại, ngồi hướng về Ca tỳ la vệ, hoài niệm thân phụ, họ hàng, quê hương, và sắp về vấn an, thuyết pháp. Khi về, ngài nghĩ, ân cha mẹ rất nặng, tình dưỡng dục rất dày, nên ngài đã đến gặp mà không để cho phụ hoàng nghênh đón. Lần về thăm này, Phật đã độ cho phụ hoàng, bà con cũng được độ không ít, trong số đó có 2 em con chú là A nan và A na luật xuất gia (Chính 2/622-623).
Đời Phật, việc thương tâm nhất là họ Thích bị tàn hại bởi Lưu ly vương. Tuy biết nghiệp cũ khó tránh, ban đầu ngài cũng cản, và cản được, bằng cách đón đường, ngồi dưới cây khô, và trả lời với ác vương về ngụ ý của ngài, rằng sự che chở của thân tộc vẫn hơn người ngoài (Chính 2/690). Phật hiếu hạnh đến nỗi lúc niết bàn, ngài vẫn đề cao phụ mẫu lực mà không sử dụng thần túc lực và trí tuệ lực (Chính 2/749). Đối với kế mẫu, bà Đại thắng sinh chủ, lúc bà từ trần, Phật đã từ chối sự làm thay của chư thiên, nói rằng cha mẹ sinh thành, làm cho con được lợi ích rất nhiều, ân nuôi dưỡng không thể không báo đáp, rồi đích thân khiêng 1 góc của linh sàng, 3 góc kia khiến 3 tôn giả A nan, Nan đà và La vân khiêng, đến tận chỗ hỏa táng, cũng chính Phật đích thân hỏa táng kế mẫu (Chính 1/822). Quan trọng hơn nữa là việc lên Đao lợi an cư và thuyết pháp cho mẹ. Việc này Tăng a hàm và Tạp a hàm (Chính 2/134 và 703) đều có ghi. Dịch chủ Pháp hộ cũng có 1 dịch phẩm đề rõ là Phật thăng Đao lợi vị mẫu thuyết pháp kinh (Chính 17/687-799). Còn kinh Địa tạng thì không những ngụ ý Phật báo hiếu cho mẹ bằng cách nói về hạnh nguyện của Địa tạng đại sĩ, mà còn đem chúng sinh tội khổ ký thác cho ngài, ngụ ý báo hiếu cha mẹ nhiều kiếp – báo hiếu chúng sinh. Nay, ở đây, bằng kinh Vu lan, Phật dạy cách báo hiếu cho muôn đời đệ tử của ngài. Nhưng, tất cả và hết thảy, không quan trọng bằng khi mới thành đạo, ngay dưới gốc bồ đề đại thọ, Phật đã kiết bồ tát giới, rằng hiếu là giới, vì lục đạo chúng sinh đều là cha mẹ. Chính điều này cho thấy, đối với Phật, hiếu hạnh là luật.
Khi ấy tôn giả Đại mục kiền liên mới thành tựu được 6 thứ thần thông, muốn cứu cha mẹ, đền đáp ân đức sinh thành dưỡng dục, nên dùng thiên nhãn quan sát khắp cả thế giới luân hồi, nhìn thấy mẹ mình sinh trong ngạ quỉ, không có đồ ăn, không được thức uống, da liền với xương. Tôn giả thống thiết, lấy bát đựng cơm đem hiến cho mẹ. Bà mẹ nhận được, tức thì tay trái che lấy cái bát, tay phải vốc cơm. Nhưng mà cơm ấy chưa vào đến miệng đã thành than lửa, nên không ăn được. Tôn giả kêu lên, khóc lóc bi thảm, chạy về bạch rõ với đức Thế tôn cảnh tượng như vậy.
Đoạn này là duyên khởi, mở đầu kinh và pháp Vu lan. Duyên khởi này đã chứng tỏ thần thông không địch nỗi nghiệp lực. Địch nổi nghiệp lực chỉ có uy lực của Tăng chúng.
Đại mục kiền liên là tên gọi theo họ mẹ. Gọi theo họ cha là Câu lợi ca hay Câu luật đà. Ngài với ngài Xá lợi phất là bạn chí thiết, và là 2 đệ tử thượng túc của đức Bổn sư (Chính 1/3). Đối riêng với ngài Xá lợi phất, thần thông của ngài đã có trường hợp không bằng, nhưng ngài vẫn là thần thông đệ nhất, song song với ngài Xá lợi phất là trí tuệ đệ nhất (Chính 2/639). Tôn giả Mục liên thường thưa với Phật, nếu nói đúng đắn rằng Phật tử là sinh ra từ miệng Phật, sinh ra từ pháp hóa, hưởng phần tài sản chánh pháp của Phật, thì Phật tử ấy chính là con đây; trong 1 ngày mà con được đức Thế tôn 3 lần đến tận chỗ con ở, đưa con vào chỗ ở của vĩ nhân (Chính 2/132). Ngài biết rành 64 thứ ngữ âm, nên đã lãnh sứ mạng vào tận vô gián ngục thăm Đề bà đạt đa (Chính 2/804). Có một sự liên hệ đặc biệt là đại chúng đã ủy ngài lên Đao lợi thỉnh Phật, sau khi Phật đến đó thuyết pháp cho mẹ mà không cho ai hay, để họ khát vọng, hết giải đải (Chính 2/705). Việc này do thần thông đệ nhất, nhưng ngẫu nhiên mà liên hệ đến hiếu hạnh của Phật và của ngài.
Sáu thứ thần thông là thần cảnh, thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng và lậu tận. Năm thứ đầu ai cũng có thể thực hiện, nhưng thứ 6 thì chỉ thánh giả đệ tử của Phật mới có. Nghĩa 6 thần thông ấy như sau: thứ nhất là biến hóa như ý, thứ hai là thị giác vô ngại, thứ ba là thính giác vô ngại, thứ tư là biết tâm lý người, thứ năm là biết đời kiếp trước, thứ sáu là sạch hết phiền não. Tuy nói 5 thứ đầu ai cũng có thể có, nhưng Phạn vương thấy cả ngàn thế giới mà không tự thấy phục sức của mình, vì lẽ không có “con mắt tuệ giác vô thượng” (Chính 2/581). Như vậy cũng đủ biết ngũ thông của kẻ khác chất và lượng đều khác xa chất và lượng ngũ thông của đệ tử Phật. Tuy nhiên, không phải đệ tử La hán của Phật ai cũng đủ lục thông, và lục thông la hán như ngài Mục liên thì thật hiếm có. Mà lục thông thì tự tại giáo hóa, nên lục thông la hán là đại thừa.
Đền đáp ân đức sinh thành dưỡng dục, theo chính văn thì chỉ là trả ơn bú mớm, tức là chỉ nói cái ơn nuôi dưỡng. Tôi dịch như trên là để cho đủ cả 2 cái ơn sinh và dưỡng. Phật pháp luôn luôn cảnh giác rằng thân người khó được mà dễ mất. Khó được mà được là một phần nhờ cái ơn sinh, dễ mất mà còn là một phần nhờ cái ơn dưỡng. Cái lý nói cha mẹ vì sinh lý mà có con chứ có ơn gì, chỉ nên để cho kẻ khác nói. Còn những kẻ làm con Phật thì phải biết “có 2 việc làm cho phàm phu được đại công đức, thành đại quả báo, được vị cam lộ, đến chỗ vô vi, ấy là phụng sự cha và phụng sự mẹ. Phụng sự cha mẹ được đại công đức thành đại quả báo cũng y như được đại công đức thành đại quả báo khi hiến cúng vị bồ tát chỉ còn một đời nữa là thành Phật. Vì vậy, các thầy tỷ kheo, hãy luôn luôn nhớ mà hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ”. “Các thầy tỷ kheo, có 2 người mà các thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vẫn chưa trả ơn được, đó là cha và mẹ. Các thầy phải phụng dưỡng cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không lỡ mất cơ hội” (Chính 2/601). Lời này của Phật dạy trực tiếp cho người xuất gia. Người xuất gia không thể nại cớ chỉ lo phần hướng dẫn cha mẹ làm lành, hay nại chính cái cớ xuất gia, mà không phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ cần đến mình. Câu “hiếu thuận cho đúng lúc, không lỡ mất cơ hội” cho thấy khi cha mẹ còn, không lo phụng dưỡng theo nhu cầu, đến khi cha mẹ mất mới làm mọi cách siêu độ, thì đó là điều không đúng ý Phật chút nào. Như vậy, “nếu xuất gia mà khi cha mẹ cần đến mình, mình không thể đáp ứng, thì thà tại gia để suốt đời phụng dưỡng cha mẹ” (Chính 1/500). Bởi vì ngài Trí húc đã dẫn lời Phật dạy, “có 2 vị Phật đang sống trong nhà các người, đó là cha và mẹ” (Vạn 35/154A). Bởi vì kinh Bảo tạng đã dạy, hiếu sự cha mẹ thì vua trời Đế thích ở trong nhà các người, thực hành hiếu sự thì chúa trời Đại phan ở trong nhà các người, và hiếu sự tận lực thì đức đại giác Thích tôn ở trong nhà các người (Vạn 59/201A dẫn). Bởi vì ngay trong giới luật thanh văn đi nữa mà, ví dụ thấy cha mẹ bị bắt, không cố chuộc ra, thì phạm đệ thất tụ (Vạn 59/213A). Nên tôn giả Mục liên được thần thông là nghĩ ngay đến việc cứu độ cha mẹ, và việc ấy đã duyên khởi ra pháp Vu lan.
Thế giới luân hồi, chính văn là thế gian. Theo định nghĩa của Phật giáo, thế gian nghĩa là ở trong sự biến đổi, tức những gì thuộc về sự chi phối của thì gian. Nên thế gian là luân hồi, bao gồm cả 6 loài là chư thiên, nhân loại và tu la, địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh. Dùng chữ luân hồi thay chữ thế gian thì sát nghĩa và khỏi bị hiểu như thường hiểu về chữ ấy. Mẹ ngài Mục liên đọa trong loài thứ 2 của 3 loài thuần khổ hay khổ nhiều, của thế giới luân hồi. Sự hiến cơm cho mẹ của ngài Mục liên là làm theo huấn dụ của Phật, “khất thực đúng phép mà hiến cho cha mẹ thì phước rất lớn” (Chính 2/22). Nhưng mẹ ngài khi nhận được bát cơm hiến cho, tức thì tay che tay vốc, ấy là cái nghiệp tham lẫn hiện hành ra đó: đó là lý do không ăn được. Xưa kia, khi Phật còn làm một tội nhân đại địa ngục, mục kích ngục tốt hành hạ tội nhân khác nên phát bồ đề tâm, bằng cách xin ngục tốt nhẹ tay cho họ và để mình chịu thay. Nhờ một niệm phát bồ đề tâm như vậy mà bị ngục tốt nổi giận giết chết tức khắc, làm ngài thoát được cái tội trăm kiếp ở trong địa ngục, mở đầu cho sự thành Phật của ngài (Chính 3/136). Câu chuyện “sợi tơ Thiện”, sách của tạp chí Niết bàn xưa, thuật một kẻ đọa địa ngục, nhờ nghĩ rằng hãy để mình chịu mọi cực hình thay cho bao nhiêu tội nhân khác, nên thấy một sợi tơ rất nhỏ như tơ nhện, từ trên cao thòng xuống. Kẻ ấy nắm lấy thì tự nhiên sợi tơ từ từ rút lên. Thấy vậy, tội nhân tranh nhau đến nắm. Sợi tơ vẫn rút lên, không đứt. Kẻ ấy cũng vui lòng và vẫn vui lòng. Nhưng khi tội nhân nắm nhiều quá thì kẻ ấy đâm hoảng, đổ lếu, la lên, rằng đừng nắm nữa kẻo đứt, tức thì sợi tơ đứt ngay. Nên mẹ ngài Mục liên, khi nhận được bát cơm mà biết rộng rãi, chia cho kẻ khác với, biết thương thân nên thương kẻ cùng cảnh ngộ, thì không những ăn được mà chắc chắn còn thoát được ngay cái kiếp ngạ quỉ. Đó là ý kiến của hầu hết các nhà chú giải kinh Vu lan. Tự lực của bà đã không được như vậy, nhưng may còn có uy lực của Tăng chúng.
Đức Thế tôn dạy, Đại mục kiền liên, thân mẫu tôn giả gốc rễ tội chướng kết đã quá sâu, không phải năng lực một mình tôn giả có thể giải cứu. Dầu cho tôn giả hiếu thảo khóc than vang động trời đất, nhưng mà những vị thiên thần địa kỳ, tà ma ngoại đạo, các vị đạo sĩ và bốn thiên vương cũng đều không thể làm gì cho được. Phải nhờ uy lực của Thập phương tăng mới được siêu thoát. Hôm nay Như lai chỉ dạy tôn giả cách thức cứu vớt, để cho hết thảy những kẻ khổ nạn cùng được siêu thoát.
Đoạn trước đã chứng tỏ thần thông cao như ngài Mục liên vẫn không làm gì được đối với nghiệp lực. Đoạn này nói thần thông cao như ngài Mục liên hay thần thông nhiều như cả trời đất quỉ thần và các đạo sĩ gồm lại cũng không làm gì được đối với nghiệp lực. Làm gì được đối với nghiệp lực là uy lực của Tăng chúng.
Bốn thiên vương là Trì quốc ở phương đông, Tăng trưởng ở phương nam, Quảng mục ở phương tây, Đa văn ở phương bắc. Đó là 4 vị thiên vương chuyên hộ vệ thế gian: hộ vệ dân chúng và hộ vệ đất nước.
Thập phương tăng hay Thập phương tăng chúng, Thập phương đại uy đức tăng chúng, chỉ là một mà nói tắt hay nói rõ. Tăng, hay Tăng già, dịch nghĩa là chúng: 4 vị xuất gia sắp lên, đã thọ tỷ kheo giới, sống với nhau theo nguyên tắc lục hòa, thì gọi là tăng hay chúng. Tăng chúng hay Chúng tăng là tiếng ghép cả Hoa Phạn. Thập phương tăng là những vị tỷ kheo ở tất cả mọi nơi. Khi những vị này hiện diện tại một chỗ, trong thì gian mau, lâu, hay vĩnh viễn, với số lượng 4 vị hay nhiều đến bao nhiêu, đều gọi là Thập phương tăng. Uy lực, hay uy đức, là cái thế của sức mạnh tinh thần uy nghiêm (uy lực), nói cách khác, là cái thế của sức mạnh công đức rất uy nghiêm và khó lường (uy đức). Công đức ấy của Tăng chúng là giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Chính uy lực hàm đủ chất lượng các công đức này mới có thể cứu khổ, mới diệt được nghiệp và nghiệp báo, nói tóm, uy lực này mới địch nổi nghiệp lực. Uy lực này là căn bản của thắng pháp Vu lan.
Phật hứa dạy cách cứu độ cha mẹ cho tôn giả Mục liên, mà nói để cho hết thảy những kẻ khổ nạn cùng được siêu thoát, thì không phải chỉ dạy một mình tôn giả Mục liên, không phải chỉ để cứu độ một mình mẹ ngài, cũng không phải chỉ để cứu độ một loài ngạ quỉ, mà là dạy cho hế thảy Phật tử cái cách cứu độ tất cả cha mẹ ở mọi nơi thống khổ. Cách ấy như dưới đây.
Đại mục kiền liên, Thập phương tăng chúng lấy rằm tháng bảy làm ngày tự tứ. Ngày ấy các người hãy vì tất cả cha mẹ bảy đời, cha mẹ hiện tại, những kẻ đang ở trong vòng khổ nạn, mà sắm trai soạn đủ hết mùi vị, các thứ trái củ, bồn chậu múc rưới, hương dầu đèn nến, giường có đồ nằm, đem đồ ngon nhất đặt vào trong bồn, hiến cúng Thập phương đại đức tăng chúng.
Cách cứu độ cha mẹ, hay là thắng pháp Vu lan, là trai tăng trong ngày Tăng tự tứ tức rằm tháng bảy. Chính yếu đoạn này là như vậy, nhưng đoạn này có nhiều điều cần giải thích.
Trước hết, các câu Thập phương tăng chúng lấy rằm tháng bảy làm ngày tự tứ. Ngày ấy các người …, sát chính văn thì phải dịch: trong buổi lễ tự tứ ngày rằm tháng bảy của Thập phương tăng chúng, các người… Nói như vậy có nghĩa Vu lan trai tăng rằm tháng bảy là trai tăng đúng ngọ, sau lễ tự tứ, và lễ ấy phải cử hành trong ngày rằm tháng bảy, trước giờ ngọ. Dịch như đã dịch, chỉ để thuận ứng với những chữ ngày trong các đoạn văn sau mà thôi.
Thập phương tăng chúng hay Thập phương đại đức tăng chúng đã giải thích ở trên. Còn tự tứ là dịch nghĩa chữ Bát hòa la (Phạn: Pra-varana, Paly: Pavarana). Tăng chúng an cư đến ngày rằm tháng bảy thì giải chế. Trước khi giải chế, việc quan trọng nhất là cử hành tự tứ. Sau khi tự tứ, vị tỷ kheo được thêm một tuổi tỷ kheo giới, nên tự tứ cũng gọi là thọ tuế – là nhận tuổi mới mà thường gọi là hạ lạp. Tự tứ là sau 3 tháng tức 90 ngày an cư, các vị tỷ kheo ai cũng hoan hỷ mà đưa mình ra cho những vị tỷ kheo cùng an cư tùy ý chỉ những lỗi lầm mà họ thấy, nghe hay nghi. Sau khi chỉ, người được chỉ nếu thấy chỉ sai thì phân trần, nếu thấy chỉ đúng thì chấp nhận, rồi do cả Tăng chúng phán định. Phán định có lỗi, và lỗi gì, thì y Luật mà sám hối: như vậy là phục hồi thanh tịnh. Về cách thức và lời nói tự tứ, Tôn mật đại sư viết, kẻ đương cục hay mù mờ, nên phải nhờ người bàng quan chỉ cho những chỗ ưu điểm và nhược điểm, như thế dẫu chưa diệt vô minh, chứng thánh quả, thì cũng diệt tội lỗi, sinh phước đức. Nên trần vai áo bên phải (tức sửa pháp y), quỳ trước Tăng chúng mà bạch, “Đại đức, hay Trưởng lão, hoặc thấy tôi có lỗi, hoặc nghe tôi có lỗi, hoặc nghi tôi có lỗi, xin tùy ý nêu lên, thương mà nói cho tôi, tôi sẽ sám hối”. Như vậy thì thân tâm sẽ thanh tịnh như ngọc pha lê, thiền định giải thoát có thể có được (Vạn 35/121B). Lời này không được như nguyên ngữ của Luật bằng lời sau đây, do Trí húc đại sư dẫn, “bạch Đại đức chúng tăng, hôm nay là ngày tự tứ, tôi cũng xin tự tứ. Nếu thấy, nghe hay nghi tôi có tội gì, thì xin đại đức (hay trưởng lão) vì thương xót mà nói cho tôi. Nếu tôi thấy tội ấy thì sẽ như pháp sám hối”. Theo thứ tự, ai cũng phải thưa như vậy 3 lần. Tự tứ rồi mới hoàn tất việc an cư (Vạn 35/156B). Cả 2 lời trên đây, không bằng cách thức và lời nói thọ tuế (tự tứ) trong Tăng a hàm: Bấy giờ, đến ngày rằm tháng bảy, đức Thế tôn trải tọa cụ ngồi giữa chỗ đất trống. Các vị tỷ kheo ngồi vây quanh ngài. Ngài bảo tôn giả A nan, hãy đánh kiền chùy lên. Vì hôm nay là rằm tháng bảy, ngày thọ tuế. Tôn giả thưa, thọ tuế là thế nào, thì ngài dạy, thọ tuế là làm sạch động tác của thân miệng ý. Cứ mỗi 2 vị tỷ kheo đối diện với nhau mà tự trình bày nhược điểm của hành vi. Bằng cách tự xưng pháp danh của mình và nói rằng, hôm nay Tăng chúng thọ tuế, tôi cũng muốn thanh tịnh nên thọ tuế, xin tha thứ cho lỗi lầm của tôi. Tôn giả A nan lại hỏi, việc này là pháp của chư Phật hay chỉ đức Thế tôn có? Đức Thế tôn nói, quá khứ vị lai hằng sa chư Phật đều có, như ta có ngày nay. Tôn giả A nan hoan hỷ hết sức, tức thì lên giảng đường đánh kiền chùy mà nói, tôi đánh lên hiệu lịnh của Như lai, đệ tử của ngài xin tập hợp lại! Tăng chúng tập hợp cả rồi, đức Thế tôn nhìn mà nói, hôm nay tôi thọ tuế: tôi có lỗi với ai không? thân miệng ý của tôi có phạm lỗi gì không? Đức Thế tôn nói đến 3 lần như vây, rằng hôm nay tôi muốn thọ tuế: tôi có lỗi gì với tăng chúng không? Tôn giả Xá lợi phất đứng dậy, bạch đức Thế tôn: Tăng chúng quan sát Như lai, không thấy có lỗi gì về thân miệng ý. Như lai cũng không có lỗi gì với ai. Còn phần con, con xin hướng về Như lai mà tự trình bày: con có lỗi gì với Như lai và Tăng chúng không? Đức Thế tôn bảo, Xá lợi phất, tôn giả không có hành động gì phi chánh pháp nơi thân miệng ý. Tôn giả Xá lợi phất lại thưa, bạch đức Thế tôn, tất cả tỷ kheo tăng đây cũng muốn thọ tuế: tất cả tỷ kheo tăng đây có lỗi gì đối với Như lai không? Đức Thế tôn dạy, không (lược dịch Chính 2/676). Tạp a hàm cũng nói, bấy giờ là ngày rằm tháng bảy, ngày thọ tự tứ. Đức Thế tôn trải tọa cụ trước Tăng chúng mà ngồi, nói, chư vị tỷ kheo, tôi có thể bạt nhổ cho chư vị mũi kiếm đã đâm vào chư vị. Chư vị là con tôi, từ miệng của tôi mà sinh, từ pháp hóa của tôi mà sinh, hưởng phần tài sản chánh pháp của tôi. Chư vị hãy nhiếp thọ tôi, đừng để thân miệng ý của tôi có những điều đáng hiềm trách. Tôn giả Xá lợi phất đứng dậy, sửa pháp y, lạy mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con không thấy thân miệng ý của đức Thế tôn có điều gì đáng hiềm trách. Còn phần con, con xin đức Thế tôn nhiếp thọ cho con, thấy, nghe hay nghi con có lỗi gì không, thân miệng ý của con có điều gì đáng hiềm trách không? Đức Thế tôn dạy, thân miệng ý của tôn giả không có điều gì đáng hiềm trách mà tôi thấy, nghe hay nghi. Tôn giả Xá lợi phất lại thưa, bạch đức Thế tôn, phần con không có, còn Tăng chúng đây có vị nào đức Thế tôn thấy, nghe hay nghi thân miệng ý có điều gì đáng hiềm trách không? Đức Thế tôn dạy, tôi cũng không thấy nghe hay nghi vị nào trong Tăng chúng này có điều gì đáng hiềm trách về thân miệng ý (lược dịch Chính 2/330). Như vậy sự tự tứ thật quan trọng. Chính Phật cũng tự tứ như ta thấy.
Cha mẹ bảy đời không phải là ông cha 7 thế hệ, mà là cha mẹ bảy đời kiếp đã qua của mình. Nhưng, chặt tất cả cây cối trên cõi đất này làm những cái thẻ bằng 4 đốt ngón tay mà tính đi nữa, cha mẹ quá khứ vẫn nhiều hơn (Chính 2/241). Như vậy tại sao chỉ nói 7 đời? Trong kinh điển Phật giáo, và các sách xưa của Ấn độ cũng vậy, không hiểu vì lý do hoặc tập quán nào mà hay lấy số 7 làm thành số như ta lấy số 10 làm thành số. Nói cả 7 đời thì cũng như nói mười phần vẹn mười, chứ không phải là định số.
Những kẻ đang ở trong vòng khổ nạn là cha mẹ bà con trong hiện tại và trong quá khứ mà đang bị khổ nạn. Nhưng câu này cũng có nghĩa cha mẹ bà con hiện tại và quá khứ, cùng những kẻ đang bị khổ nạn khác.
Đủ hết mùi vị và ngon nhất, chính văn là bách vị và tận thế cam myլ nghĩa đen là trăm mùi và ngon tốt nhất đời, chỉ là những thành ngữ tả sự đủ mùi và ngon nhất. Các thứ trái củ, chính văn là ngũ quả, nghĩa đen là trái củ đủ cả 5 loại, cũng chỉ có nghĩa các thứ trái và củ. Những câu trên đây là nói về thực phẩm, còn 3 câu dưới đây là nói về dụng cụ. Bồn chậu múc rưới là dịch nghĩa đen chính văn cấp quán bồn khí. Bồn chậu ở đây là thau chậu và những dụng cụ lớn nhỏ cùng loại, dùng để múc nước, đựng nước mà rưới, rửa, tắm … Hương dầu đèn nến, nói đại loại là hương đèn, để cúng Phật và dùng vào những việc cần thiết những thứ này. Giường có đồ nằm, chính văn là sàng phu ngọa cụ, dịch đủ là giường có đồ nằm trải đặt trên đó, tức gồm có màn, chiếu, gối, chăn nệm … Năm 1956 lên Lào dự lễ Phật đản, tôi thấy Phật tử xứ ấy sắm những chiếc giường mới, với chăn, màn, khăn trải, chiếu, nệm, gối, tất cả đều mới. Những chiếc giường này được sắp để có hàng lối thứ tự trước mặt Tăng chúng, và của ai thì cả gia đình người ấy ngồi dưới đất, cạnh chiếc giường, cầu nguyện theo Tăng chúng cho đến ngày giờ hiến cúng. Trên những chiếc giường ấy còn để nhiều vật dụng khác, cần thiết cho một vị tỷ kheo được dùng theo giới luật cho phép. Trong số vật dụng ấy có 1 cái làm bằng thiếc mà tôi tạm gọi là bồn, không lớn như cái bồn theo tiếng ta, mà chỉ cao cỡ 3 tấc kể cả chân, miệng hình tròn hay hình thuẫn, trong đó chứa để thực phẩm đầy đủ cho 1 người ăn. Bồn này có người không chứa để thực phẩm mà chứa để những vật dụng linh tinh cần thiết cho một vị tỷ kheo. Khi hiến cúng, người cúng 2 tay bưng cái bồn ấy, tượng trưng cho cả chiếc giường và mọi vật dụng khác, trao cho vị tỷ kheo – Trao theo thứ tự chứ không phải lựa chọn hay định trước. Phải trao và trao bằng 2 tay, vì ngay Luật tạng Hoa văn cũng cấm người xuất gia tự tay lấy vật dụng mà không qua 2 tay trao cho của người hiến cúng đúng cách (Vạn 35/124A).
Đặt vào trong bồn, bồn ở đây chính là bát. Bát là gọi tắt chữ Phạn dịch âm Bát đa la, và dịch nghĩa là ứng khí : đồ của vị tỷ kheo dùng để ứng cúng mà ứng với cái lượng đủ ăn. Chữ bát gọi tắt này hay đi đôi với chữ bồn, gọi là bát bồn, là tiếng gồm cả Phạn Hoa, và bồn là nghĩa nôm na của bát. Gọi chung như vậy cũng có lý do. Nguyên chén để ăn, Tàu gọi là bát, viết trên chữ hữu là bạn bè, dưới chữ mãnh là đồ bát đĩa, và khi gọi thì hay kèm với chữ bồn cũng là chén ăn nhưng lớn hơn, thành tiếng bát bồn. Tiếng bát bồn này qua nhà chùa thì bát viết bên chữ kim bên chữ bản, tức chữ bát đã nói ở trên và gọi bát bồn cũng với cái nghĩa đã nói ở trên.
Chính bồn là bát của Tăng chúng này, người cúng đặt thực phẩm vào đó mà hiến cúng. Có điều trước khi đặt vào đó, thực phẩm được đặt vào cái bồn như Phật tử Lào làm và tôi đã kể, hoặc vào bát dĩa như Phật tử Việt Hoa làm – Bát dĩa ấy ngài Trí húc nói gọi chung là bồn (Vạn 35/151B). Nói tóm, bồn trong câu vào bồn Vu lan ở đây hay sắm Vu lan bồn ở sau, chính là bát, là bát ứng khí của Tăng chúng. Còn bồn như dụng cụ Phật tử Lào dùng hay bồn là bát đĩa như ngài Trí húc nói, chỉ là đồ để thực phẩm trước khi đặt thực phẩm ấy vào bát bồn của Tăng chúng.
Hiến cúng Thập phương đại đức tăng chúng, hiến cúng hay hiến, cúng, cúng dường (cung dưỡng), bố thí, cho, tất cả đều nghĩa là cho, chỉ đổi tiếng theo mỗi trường hợp mà thôi. Tuy nhiên, cái cách và cái lòng hiến cúng bố thí mới là quan trọng và phải nói . Có của mà cách cho của lếu thì không ra gì. Tôi trích, và lược dịch sau đây, từ trong Tăng a hàm, những lời Phật huấn dụ để thấy cái cách ấy. Phật dạy, miệng ta không nói cho ta phước nhiều, cho người khác phước ít (Chính 2/827). Cho thì phải bình đẳng, đừng nghĩ nên cho kẻ này, không nên cho kẻ khác. Hãy nghĩ ai cũng nhờ ăn mới sống mà cho (Chính 2/826). Từ khi mới phát tâm cho đến ngày thành đạo, lòng ta không có sự đầy vơi, không chọn người, không chọn địa phương. Nên cho thì phải nhớ mãi ý niệm bình đẳng, đừng sinh tâm thị phi (Chính 2/826). Ba tư nặc vương bạch Phật, từ nay con cấm ngoại đạo vào lãnh thổ của con. Con xin luôn luôn cúng dường những thứ cần dùng cho Tăng chúng. Phật dạy, đừng nói như vậy; cho súc vật còn được phước, nữa là (Chính 2/781). Hãy cho kịp thời, cho trong sạch, cho bằng tay mình, cho với lòng cầu nguyện chứ không kiêu căng, cho một cách giải thoát chứ không cầu quả báo, cho mà cầu niết bàn chứ không cầu sinh chư thiên, cho một cách tìm ruộng phước mà cho chứ không bỏ vào đất hoang, cho rồi đem cái phước ấy cho mọi người mọi loài chứ không vì bản thân (Chính 2/755). Trưởng giả Sư tử thưa, nghe Phật ca tụng cái phước hiến cúng Tăng chúng, chứ không ca tụng cái phước thỉnh cúng riêng, nên từ nay về sau, con xin luôn luôn chỉ hiến cúng Tăng chúng. Phật dạy, ta không nói rằng chỉ nên hiến cúng Tăng chúng mà không nên cho ai. Vì cho súc vật mà còn có phước, huống chi cho mọi người. Trưởng giả thưa, như vậy từ nay về sau con sẽ hiến cúng Tăng chúng và mọi người mà không chọn lựa ai cả. Sau đó, lần khác, trưởng giả Sư tử lại thưa Phật, con đang nhớ lời ngài dạy thỉnh Tăng mà hiến cúng, thì có thiên nhân đến bảo con, nên phân biệt vị này thế này, vị khác thế khác. Con nghĩ lời Phật không nên trái. Con lại nghĩ, con hiến cúng tất cả, còn ai giữ giới thì phước báo vô cùng, ai phạm giới thì tự chịu tai họa. Con chỉ nghĩ ai cũng phải ăn mới sống nên hiến cúng mà thôi. Phật dạy, đó là cái nguyện rộng rãi, cái tâm bình đẳng của bồ tát. Trưởng giả hãy nhớ, bố thí bình đẳng thì phước báo vô tận. Bấy giờ trưởng giả Sư tử chăm nhìn Thế tôn, lòng không xao động, tức thì chưa rời khỏi chỗ mình ngồi mà đã được sự trong sạch của con mắt chánh pháp (Chính 2/792). Từ nay sắp đi, con cấm ngoại đạo vào nhà con. Con chỉ mời đệ tử Phật, tại gia cũng như xuất gia. Đó là lời thưa Phật của cư sĩ Ưu ba ly. Phật dạy, cư sĩ cứ nên tùy sức mà tiếp tục hiến cúng cho họ. Cư sĩ, ta không nói nên cho ta mà đừng cho kẻ khác, nên cho đệ tử của ta mà đừng cho đệ tử kẻ khác, cho ta thì phước lớn mà cho kẻ khác thì phước nhỏ, cho đệ tử của ta thì phước nhiều mà cho đệ tử của kẻ khác thì phước ít. Cư sĩ, ta nói như thế này, hãy cho tất cả, tùy tâm hoan hỷ. Có khác chăng là cho người tinh tiến thì phước nhiều hơn là cho người biếng nhác, mà thôi (Chính 1/630). Ty tứ vương bố thí nhưng cho đồ xấu, viên đầu bếp của ông là Ưu đà ra tìm cách cải thiện tâm cho và cách cho ấy, nên chết rồi sinh lên tầng trời Tứ thiên vương, còn Ty tứ vương chết rồi chỉ được sinh trong cung điện trống rỗng của rừng Nhĩ thọ thuộc tầng trời ấy. Tôn giả Kiều kiệm bát đế thấy, hỏi, Ty tứ vương xưng tên, tôn giả ngạc nhiên : ông chủ trương không có đời sau, sao lại được lên đây? Ty tứ vương thưa có, nhưng đã được ngài Cưu ma la ca diếp làm cho tiêu tan. Tôn giả trở lại Diêm phù, con xin ngài nói cho ai nấy hiểu rằng, khi bố thí làm phước thì phải cho một cách thành tâm, cho bằng cách tự tay mình đưa, cho bằng cách tự mình đi đến, cho với đức tin sâu xa, cho với sự xác nhận có nghiệp và nghiệp báo. Đừng cho để rồi chịu cái nghiệp báo như Ty tứ vương này. Ty tứ vương này là chủ mà cho không thành tâm, nên sinh tầng trời Tứ thiên vương mà chỉ được ở trong cung điện trống rỗng của rừng rú (Chính 1/532). Đế thích, có 7 việc mà ta gọi là sự bố thí rộng rãi cho mọi người, và thực hành thì sinh ngay lên Phạn thiên: xây dựng Phật tháp Tăng phòng, lập vườn cây ăn quả có ao hồ cây cối mát mẻ, cung cấp thầy thuốc và thuốc để cứu chữa bịnh nhân, làm thuyền bè chắc chắn cho dân chúng qua sông vượt biển, thiết lập cầu cống, đào giếng bên đường cung cấp nước cho người qua đường, làm chỗ vệ sinh công cộng cho đại tiểu tiện lợi (Chính 16/777). Như vậy cho mà lòng cho và cách cho đều đúng với giáo huấn của Phật, lại cho đúng với nhu cầu mà Phật chỉ dẫn, mới có phước lớn.
Nói tóm, đoạn kinh trên đây, như đã nói, là chỉ cách trai tăng trong ngày tự tứ để cứu độ cha mẹ. Cách ấy, cho đến đây, vẫn còn vài chi tiết cần thảo luận.
Thứ nhất, chính văn nói sắm đủ mọi thứ, mà là thứ tốt. Nói như vậy mà nếu hiểu như vậy thì mấy ai làm nổi. Phải hiểu nói như vậy chỉ là nói sự hết lòng chân thành. Đem sự hết lòng ấy mà tùy sức và tùy nghi hiến cúng. Chứ không phải hiến cúng phải cho nhiều, cho tốt, càng không phải có gì hiến cúng cho hết. Hiến cúng để rồi gây ra hậu quả hư hỏng thiện tâm nơi bản thân hay nơi người nhà hoặc người xung quanh, thì đó là điều Phật tối kﮠLại nữa, không nhất thiết phải có của mới hiến cúng được. Phật nói của có thứ ở trong, có thứ ở ngoài. Của ở ngoài là tài sản, của ở trong là sức lực và tư tưởng: đem sức lực và tư tưởng mà đóng góp vào sự hiến cúng thì cũng như, và có khi hơn, hiến cúng tài sản. Viên đầu bếp của Ty tứ vương hơn chủ là vì biết hiến cúng cái của ở trong. “Thiện nam tử, trong đời có ai nghèo đến nỗi không có thân thể. Có thân thể thì thấy người làm phước, mình đem thân đến giúp, với lòng hoan hỷ không chán. Như vậy cũng là bố thí và cũng được phước đức. Phước đức ấy có khi bằng một phần, có khi bằng nhau, có khi hơn. Vì vậy mà khi thọ Ba tư nặc vương hiến cúng, ta chú nguyện cho cả nhà vua và những người nghèo khó cùng được phước như nhau” (Chính 24/1056).
Thứ hai, trong những lời trích dẫn ở trên có câu Phật ca tụng cái phước hiến cúng Tăng chúng chứ không ca tụng cái phước thỉnh cúng riêng. Lời này rất quan trọng. Lời này phân sự hiến cúng ra làm 2: cúng Tăng chúng và cúng riêng. Cúng Tăng chúng là cúng để cầu nguyện, và cúng với sự thỉnh cúng theo thứ tự chứ không thỉnh cúng riêng. Trái lại, cúng riêng thì vì lý do nào đi nữa cũng không được gọi là hiến cúng Tăng chúng. Thỉnh cúng riêng là thỉnh cúng theo ý thích riêng, thích vị nào thì mời riêng vị đó, không do Tăng chúng thọ thỉnh cúng và phái cử đi dự. Thỉnh cúng Tăng chúng theo thứ tự là thế này. Tăng chúng từ mười phương bốn hướng qui tụ lại một nơi, sự qui tụ ấy mau, lâu hay vĩnh viễn, và qui tụ bất cứ nhiều hay ít, bất cứ thường trú hay khách tăng, vị tri sự đương xứ phải y theo tuổi thọ giới mà lập thứ tự (bằng cách có thể ghi thành bản danh sách). Khi có người muốn thỉnh cúng, thì thưa với vị tri sự rằng xin thỉnh cúng Tăng chúng, lại thưa rõ thỉnh cúng mấy vị. Vị tri sự thấy số thỉnh cúng đầy đủ thì trình bạch Tăng chúng họ thỉnh cúng và đi dự cả. Nếu thỉnh cúng ít đến nỗi chỉ một vài vị mà thôi, thì vị tri sự trình bạch Tăng chúng thọ thỉnh cúng và phái cử số người đại diện đi dự theo khả năng của người thỉnh cúng. Sự phái cử này chiếu theo thứ tự đã lập, và phái cử hết người này đến người khác, hết số này đến số khác, bao giờ giáp vòng thì bắt đầu trở lại. Như vậy người thỉnh cúng dầu ít nhiều gì cũng là thỉnh cúng Tăng chúng, còn Tăng chúng thọ thỉnh cúng dầu ít nhiều gì cũng là Tăng chúng thọ thỉnh cúng. Và cái phước mà người thỉnh cúng được là phước hiến cúng Tăng chúng mười phương.
Liên quan đến việc thỉnh cúng và thọ thỉnh cúng theo thứ tự mà không riêng biệt này, tôi lược dịch một đoạn văn sau đây của Tăng a hàm để thấy rõ hơn. Phật hỏi tôn giả La vân, ông ở đâu đến đây? Tôn giả thưa, con thọ sự thỉnh cúng của trưởng giả Sư tử rồi đến đây. Vật thực tốt không? Rất tốt, và nhiều nữa. Tăng chúng thọ thỉnh bao nhiêu, ai là thượng tọa? Thượng tọa là tôn giả Xá lợi phất, Tăng chúng thần đức có đến 500 vị. Như vậy ông nghĩ trưởng giả Sư tử được phước nhiều không? Rất nhiều. La vân, nếu từ trong tăng chúng mà thỉnh cúng được 1 vị do Tăng chúng phái cử theo thứ tự, thì cái phước này hơn cái phước hiến cúng 500 vị La hán đến trăm ngàn vạn lần. Cái phước của Tăng chúng khó có ai biết được giới hạn. Sự thỉnh cúng riêng biệt chỉ như những dòng sông nhỏ, có thể được phước, có thể không. Còn Tăng chúng thì như biển cả. Trong Tăng chúng có Tu đà hoàn hướng và quả, có Tư đà hàm hướng và quả, có A na hàm hướng và quả, có A la hán hướng và quả, có Duyên giác, có Phật. Vì vậy mà biết cái phước thỉnh cúng vị do Tăng chúng phái cử không có giới hạn (Chính 2/791). Cần phải nói thêm rằng sự thỉnh cúng và thọ thỉnh cúng phải theo thứ tự mà không được riêng biệt là giới 27 và giới 28 của Bồ tát giới Phạn võng, “thỉnh cúng thứ tự là thỉnh cúng được mười phương hiền thánh tăng, thỉnh cúng riêng biệt thì 500 vị la hán tăng và bồ tát tăng cũng không bằng 1 vị phàm phu tăng do Tăng chúng phái cử theo thứ tự. Thỉnh cúng riêng biệt là nề nếp ngoại đạo, 7 đức Phật không có qui chế ấy”. (Chính 24/1007).
Chính trong ngày này, các hiền thánh tăng hoặc tu thiền định ở trong rừng núi, hoặc đã thành tựu bốn thứ đạo quả, hoặc thường kinh hành dưới gốc đại thọ, hoặc là Thanh văn hay là Duyên giác đủ sáu thần thông giáo hóa tự tại, hoặc chính những vị Bồ tát đại sĩ đã lên thập địa mà lại phương tiện hiện tướng tỷ kheo, tất cả qui tụ ở trong Tăng chúng, đồng đẳng nhất tâm mà thọ tự tứ. Vì có đầy đủ giới pháp thanh tịnh, cho nên đạo đức của Tăng chúng ấy sâu rộng mênh mông.
Thiền định trong núi hay kinh hành dưới cây, cũng trong núi, là tu hạnh đầu đà của tôn giả Đại ca diếp. Bốn đạo quả là tu đà hoàn, tư đà hàm, a na hàm và a la hán, đó là 4 đạo quả của Thanh văn. Thập địa là 10 địa vị gần cuối cùng của 52 địa vị Bồ tát: cực hỷ, ly cấu, phát quang, diệm tuệ, nan thắng, hiện tiền, viễn hành, bất động, thiện tuệ, pháp vân; sau 10 địa này chỉ còn 1 (diệu giác) hay 2 (diệu giác, đẳng giác) giai đoạn rất ngắn nữa là thành Phật đà. Thập địa bồ tát hiện tướng tỷ kheo là “trong cất hạnh bồ tát mà ngoài hiện hình thanh văn”.
Tất cả các vị mà chính văn liệt kê đều là hiền thánh tăng, “những vị có đủ giới định tuệ, lấy tuệ giác vô thượng làm sinh mạng mà sống, và vị thầy giới luật ở luôn với các ngài” (Chính 2/210); “những vị sống đồng nhất, tự độ và độ người bằng tam thừa” (Chính 2/254). Nhưng, ngoài hiền thánh tăng, thành phần chính của Tăng chúng vẫn là phàm phu tăng. Thành phần ấy bao gồm trong chữ Tăng chúng của chính văn, chứ không thể không có. Bởi vì luật của Tăng chúng là như vậy, bởi vì “nhà Cồ đàm rất rộng”, dung được cả những kẻ hý lộng ngài (Chính 2/362). Phàm phu tăng có 2 hạng, hạng có giới luật và hạng chỉ có hình thức.
Hạng có giới luật biết thanh sắc và đời sống hoa myՠlà hiện thân ma vương. Ma vương luôn luôn rình rập đằng sau, tìm cơ hội mà phá hoại. Ma vương muốn đoạt các giác quan bằng thanh sắc và đời sống hoa myծ Biết vậy nên tỷ kheo không mê hoặc thanh sắc và đời sống ấy. Thì ma vương lo rầu mà thoái chí. Tỷ kheo biết thọ của tín thí rất khó tiêu hóa, dễ rơi ác đạo, dễ mất tuệ giác, nên tỷ kheo chuyên nhất, hy vọng được cái chưa được (Chính 2/560).
Hạng chỉ có hình thức tỷ kheo thì Trí húc đại sư nói rất phải: Thập luân kinh để lại huấn thị sau đây, “đừng khinh khi hủy nhục những người xuất gia, vì lẽ đầu cạo, y mang, chính là biểu tướng của hiền thánh tăng, dẫu phá giới cho đến không giới, trong giới luật của Phật họ chỉ là thây chết, chết rồi đọa ác đạo đi nữa, cũng vẫn làm được ruộng phước cho cả nhân thiên, ở chỗ vì có hình thức của hiền thánh tăng nên làm cho nhân thiên nhìn vào sinh nhiều cảm nghĩ thù thắng, lại có thể tuyên thuyết diệu pháp cho nhân thiên, bản thân cũng có chánh nguyện, và phạm tội thì biết sám hối. Hạng phàm phu tăng này thật ra không phải là thành phần của Tăng chúng, nhưng là cái thế lực thừa của giới đức xuất gia, là cái sức kính tin Tam bảo và thánh giới” (Vạn 35/157B, Chính 13/736 và 750).
Cho nên dẫu Thập phương tăng thọ cúng trong ngày tự tứ để làm cho cha mẹ hiện tại và quá khứ của người thỉnh cúng được siêu thoát đi nữa, Thập phương tăng ấy, theo Luật, cũng không phải chỉ có hiền thánh tăng. Tăng chúng quan trọng ở giới luật và biểu tướng xuất gia. Tăng chúng mà có, hay có tập, 5 đức sau đây, thì dầu thế nào đi nữa cũng vẫn là tăng số : Phật dạy Đế thích, Tăng chúng có 5 đức, là 1. phát tâm xuất gia vì cảm mến Phật pháp, 2. hủy bỏ hình đẹp vì thích ứng pháp y, 3. cắt bỏ ân ái vì không còn thân sơ, 4. khinh thường tính mạng vì tôn sùng Phật pháp, 5. chí cầu đại thừa vì hóa độ tất cả. Vì 5 đức này mà gọi là ruộng phước, làm cho lúa phước đức ngon, tốt, không chết khô, chết sớm, và hiến cúng thì phước khó có gì so sánh được (Chính 16/777).
Đồng đẳng nhất tâm mà thọ tự tứ, chính văn là giai đồng nhất tâm thọ bát hòa la phạn. Bát hòa la, Phạn tự là pravarana, dịch nghĩa là tự tứ. Bát hòa la không phải là bát đa la như một số người hiểu lầm. Bát đa la, Phạn tự là patra, dịch nghĩa là ứng khí. Vì lầm bát hòa la là bát đa la, nên hiểu rằng chính văn ở đây nói sự thọ thực, và thêm vào chữ “phạn” để nói rằng thọ cơm trong bát. Tôi quyết đoán chữ “phạn” được thêm vì 2 lý do. Thứ nhất, chính văn ở đây đang nói về sự Tăng chúng đồng thọ tự tứ. Và phải nói như vậy mới đúng với văn nghĩa ở đây. Tăng chúng thọ tự tứ rồi mới thành Tăng chúng tự tứ, đủ giới đủ đức cho người hiến cúng trong ngày tự tứ để giải cứu cái khổ đảo huyền cho cha mẹ. Còn việc thọ thực sẽ nói sau đoạn này một đoạn nữa. Thứ hai, tra trong bản dịch khác của kinh này (mà rõ ràng như là sao lại) thì không có chữ “phạn” ấy (Chính 16/780). Nếu chấp nhận chữ “phạn” thì thọ bát hòa la phạn có nghĩa là thọ cơm trai tăng trong ngày tự tứ, không có gì khúc mắc cả. Nhưng không thể chấp nhận như vậy chỉ vì, như đã nói, ở đây văn, nghĩa và việc không phải và không thể như vậy.
Nói tóm, đoạn văn trên đây nói về thành phần Tăng chúng tự tứ. Tất cả hiền thánh tăng và phàm phu tăng đều phải thọ tự tứ sau khi an cư. Thọ tự tứ rồi mới thành Tăng chúng tự tứ, có đủ giới đức, cái đức căn bản và trọng đại trong việc địch lại nghiệp và nghiệp báo.
Ai được hiến cúng Tăng chúng tự tứ đã nói trên đây, tất cả cha mẹ cùng với bà con trong đời hiện tại mà đã quá vãng thì thoát thống khổ ở trong ba đường – thoát được tức thì, cơm áo tự nhiên; cha mẹ bà con trong đời hiện tại mà đang sống còn thì hưởng phước lạc, sống lâu trăm tuổi. Đến như cha mẹ bảy đời quá khứ thì sinh chư thiên, tự tại hóa sinh ở trong thiên giới hoa lệ chói sáng.
Đoạn này nói hiến cúng được Tăng chúng tự tứ mới cứu khổ được cho cha mẹ. Câu ai được hiến cúng Tăng chúng tự tứ đã nói trên đây làm cho sự nhận định thọ bát hòa la phạn chỉ là thọ tự tứ (chứ chưa phải thọ cơm tự tứ) được thế hơn lên của văn khí.
Chính văn ở đây nói về cha mẹ hiện tại rất rõ ràng: cha mẹ trong đời này mà đã quá vãng thì siêu thoát tức thì, cơm áo tự nhiên; còn cha mẹ trong đời này mà đang sống còn thì phước lạc và sống lâu. Siêu thoát tức thì là như mẹ ngài Mục liên sẽ nói ở sau. Cơm áo tự nhiên là sinh trong nhân loại và chư thiên, với đời sống hạnh phúc. Phước lạc là không bịnh và không khổ như đoạn sau sẽ nói.
Bấy giờ Thế tôn qui định điều này: Thập phương tăng chúng trước hết chú nguyện cho người trai chủ, chú nguyện cho đến cha mẹ bảy đời. Định ý chú nguyện rồi mới thọ thực. Trước đó hãy đặt mọi thứ trai soạn trước án thờ Phật tại chỗ trai tăng hay trong chùa tháp. Tăng chúng chú nguyện rồi mới tự thọ.
Những đoạn trước đã dạy cách hiến cúng Tăng chúng tự tứ, đã nói về sự thọ tự tứ của Tăng chúng, đã nói năng lực cứu khổ cha mẹ của sự hiến cúng Tăng chúng tự tứ. Đoạn này dạy sự thọ thực. Và đây mới nói đến sự ấy.
Tăng chúng thọ thực, đúng ra, trường hợp nào cũng phải làm theo nghi thức. Chỉ khác là nghi thức ấy được tụng tiếng hay niệm thầm mà thôi. Động tác thọ thực, theo chính văn trên đây, đại khái có 3, là chú nguyện, cúng Phật, thọ thực. Nhưng xét văn ý và sự việc thì 3 động tác này cần đổi thứ tự, là cúng Phật, chú nguyện rồi thọ thực.
Cúng Phật tức như ngày nay tụng nghi thức cúng dường, trên điện Phật hay ngay nơi trai bàn.
Cúng Phật rồi chú nguyện. Chú nguyện cho trai chủ, cho cha mẹ bà con trong hiện tại và trong quá khứ của họ. Chính văn nói chú nguyện cho đến cha mẹ bảy đời có nghĩa là chú nguyện cho cha mẹ bà con từ hiện tại cho đến quá khứ. Chú nguyện như đoạn trên đã nói, “cha mẹ bà con trong đời hiện tại mà đã quá vãng thì thoát thống khổ ở trong ba đường – thoát được tức thì, cơm áo tự nhiên ; cha mẹ bà con trong đời hiện tại mà đang sống còn thì hưởng phước lạc, sống lâu trăm tuổi. Đến như cha mẹ bảy đời quá khứ thì sinh chư thiên, tự tại hóa sinh ở trong thiên giới hoa lệ chói sáng”. Lại chú nguyện cho trai chủ cùng với những người giúp công, góp sức hay là tùy hỷ trong sự hiến cúng đều được tăng trưởng phước lạc, sống lâu, đạo niệm tăng tiến, đời đời kết thành bà con Phật pháp. Định ý chú nguyện là tập trung tư tưởng, định tâm mà chú nguyện như vậy. Định ý còn là căn bản phải có trong tất cả động tác và tâm tư suốt thì gian thọ thực.
Chú nguyện rồi thọ thực. Nhưng bưng bát cơm lên thì phải xét nghĩ 5 điều là 1. Xét công lao nhiều ít và tìm hiểu xuất xứ của thực phẩm, 2. Xét đức hạnh của mình đủ hay thiếu để hưởng thọ thực phẩm ấy, 3. Đề phòng tâm lý tránh những tính xấu mà phần chính vẫn là tham sân si, 4. Mục đích chính là lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân thể gầy yếu, 5. Vì thành đạo nghiệp mà hưởng thọ thực phẩm ấy. Lại phải tự nhắc 3 đại thừa giới: nguyện đoạn điều ác, nguyện làm điều lành, nguyện độ chúng sinh. Rồi mới thọ thực. Thọ thực xong thì kiết trai. Trong sự kiết trai cũng có sự chú nguyện: chú nguyện cho trai chủ, chú nguyện cho cha mẹ bà con trong hiện tại và trong quá khứ của trai chủ, chú nguyện cho chúng sinh.
Như đã nói, định ý là căn bản suốt thì gian thọ thực. Nghĩa là khi ăn thì tập trung tư tưởng của mình vào các động tác, vào ý nguyện của trai chủ, nhất là vào sự hổ thẹn. Miệng không nói chuyện, thân không mất uy nghi, tâm không ham ngon, ghét dở.
Thọ thực mà như vậy, và như vậy sau khi an cư tự tứ, thì người hiến cúng, người thọ cúng, và thân nhân của người hiến cúng, tất cả đều được những sự nghĩa lợi của Phật pháp, trong hiện tại cũng như trong vị lai.
Khi ấy tôn giả Đại mục kiền liên, liệt vị đại sĩ đều rất hoan hỷ. Tiếng khóc bi thảm của ngài Mục liên tức thì tan biến. Thân mẫu của ngài ngay trong ngày ấy thoát được thống khổ một kiếp ngạ quỉ.
Đại sĩ là đại bồ tát. Chính sự hiện diện của liệt vị đại sĩ trong pháp hội Phật thuyết kinh này, thêm nữa, kinh này nói trong hiền thánh tăng có Thập địa bồ tát hiện thân tỷ kheo, làm cho kinh này và thắng pháp Vu lan đều thuộc đại thừa.
Thân mẫu tôn giả Mục liên được thoát liền cái kiếp ngạ quỉ là phải. Được thoát liền vì chính hiếu hạnh của con, vì công đức duyên khởi thắng pháp Vu lan của con, vì uy lực của Phật và của thắng pháp Vu lan, vì ảnh hưởng của thắng pháp Vu lan đến tận ngày nay vẫn còn.
Tôn giả Mục liên liền đó lại thưa, bạch đức Thế tôn, thân mẫu của con đã được siêu thoát là nhờ năng lực công đức Tam bảo, trong đó gồm có uy lực Tăng chúng. Trong thì vị lai, hết thảy Phật tử có thể hay là không thể phụng hành thắng pháp Vu lan, cứu độ cha mẹ trong đời hiện tại cho đến bảy đời bằng cách làm theo lời đức Thế tôn đã dạy như trên?
Đối với Tam bảo, Phật tử nghĩ rằng Tam bảo còn mình còn, Tam bảo mất mình mất (Chính 2/821). Phật tử gồm cả 4 chúng tại gia xuất gia, và đại thừa tiểu thừa đều định nghĩa rằng sinh ra từ miệng Phật, sinh ra từ pháp hóa của Phật, hưởng phần tài sản chánh pháp của Phật. Phật lại nói như sau, trong Tăng a hàm: Nếu tỷ kheo tự phấn chấn, phấn chấn với nỗi thích thú về chánh pháp, thì những người như vậy đích thân ta sinh ra (Chính 2/783).
Như đã nói, nội dung kinh này có 2 phần. Phần trước là nguyên nhân và cách thức của thắng pháp Vu lan. Phần sau mang một huấn thị có tính chất Luật của Phật. Đoạn văn trên đây là lời hỏi mở đầu huấn thị ấy. Lời hỏi muốn biết thắng pháp Vu lan có hạn chế đối với người nào và đối với lúc nào không. Nói cách khác, lời hỏi này cốt để Phật xác định rằng người nào và lúc nào cũng có thể và cũng cần phải báo hiếu cha mẹ — tức phụng hành thắng pháp Vu lan, xác định rằng Phật tử là phải như vậy.
Đức Thế tôn dạy, Đại mục kiền liên, lời tôn giả hỏi rất đúng và hay. Như lai muốn nói, tôn giả lại hỏi. Đại mục kiền liên, các vị tỷ kheo hay tỷ kheo ni, quốc vương vương tử, đại thần tể tướng, tam công bách quan, cùng toàn dân chúng, ai muốn thực hành cái đức từ hiếu, thì trước nên vì cha mẹ hiện tại, kế đó nên vì cha mẹ bảy đời trong thì quá khứ, đến rằm tháng bảy ẫ ngày phật hoan hỷ, ngày Tăng tự tứ ẫ đặt để trai soạn đủ các mùi vị vào bồn Vu lan, hiến cúng mười phương Tăng chúng tự tứ, cầu nguyện cha mẹ đang còn hiện tại sống lâu trăm tuổi, không bịnh không khổ; cha mẹ bảy đời trong thì quá khứ thoát khổ ngạ quỉ, sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, phước lạc vô cùng. Đệ tử Như lai thực hành từ hiếu, thì mỗi ý nghĩ thường thường tưởng nhớ cha mẹ hiện tại, cho đến cha mẹ bảy đời quá khứ. Hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, đem lòng từ hiếu tưởng nhớ song thân, sắm bồn Vu lan hiến cúng Phật đà, hiến cúng Tăng chúng, báo đáp ân đức từ ái nuôi dưỡng của cha của mẹ. Những ai đã là đệ tử Như lai, thì phải tuân giữ cách thức trên đây.
Từ hiếu nghĩa là từ bi chính là hiếu thảo. Phật giáo quan niệm hết thảy chúng sinh đều đã là hay sẽ là cha mẹ của ta, thực hành đức Từ đối với chúng sinh tức là thực hành đạo Hiếu. Nên từ hiếu là ý niệm căn bản của Bồ tát giới. Ngay đối với cha mẹ hiện tại cũng vậy, rõ ràng con mà có Từ thì tất là có Hiếu.
Ngày Phật hoan hỷ là ngày Tăng tự tứ. Phật hoan hỷ là vì Tăng tự tứ sau 3 tháng an cư, không những củng cố giới pháp cho bản thân mà còn củng cố Tăng chúng. Giới pháp và Tăng chúng còn là Phật pháp còn, còn một cách có hình thức lẫn nội dung nên Phật hoan hỷ. Nói riêng trường hợp thắng pháp Vu lan, thì nhờ Tăng chúng tự tứ sau khi an cư mà có đủ giới đủ đức cho cha mẹ của trai chủ được nhờ, nên Phật hoan hỷ. Mà ngày Phật hoan hỷ và Tăng tự tứ là ngày rằm tháng bảy, ngày Vu lan: như vậy ngày ấy quan trọng biết bao nhiêu.
Chính văn chỉ nói thoát khổ ngạ quỉ, chỉ vì nguyên nhân Phật dạy thắng pháp Vu lan là do mẹ ngài Mục liên làm ngạ quỉ, vì sự hiến cúng đối trị trực diện cái khổ đói khát. Chứ không phải thắng pháp Vu lan và giới đức Tăng chúng chỉ có mỗi một hiệu năng ấy.
Như đã nói, phần này mang một huấn thị của Phật có tính chất Luật. Huấn thị ấy là hễ Phật tử thì không kể tại gia hay xuất gia, phải biết ơn cha mẹ, phải có hiếu. Bất hiếu là kẻ vô ơn đối với chính cha mẹ của mình. Muốn báo hiếu thì phải phụng hành thắng pháp Vu lan, tức hiến cúng Tăng chúng tự tứ ngay trong ngày Tự tứ của Tăng chúng. Phật dạy ai biết trả ơn thì người ấy đáng kính. Người ấy ơn nhỏ còn không quên, huống chi ơn lớn. Người ấy dầu ở cách ta một ngàn hay trăm ngàn dặm cũng vẫn không xa ta, vẫn gần ta. Vì lẽ, các thầy tỷ kheo, ta luôn luôn ca tụng người biết trả ơn. Kẻ nào không biết trả ơn, thì ơn lớn cũng quên huống chi ơn nhỏ. Kẻ ấy không gần ta, ta không gần kẻ ấy. Kẻ ấy dẫu mặc pháp y và ở ngay bên trái hay bên phải của ta đi nữa, cũng vẫn xa ta (Chính 2/600).
Có một điều nên nêu lên ở đây. Là tại gia có thể phụng hành thắng pháp Vu lan, hiến cúng Tăng chúng, điều ấy khỏi nói, còn xuất gia thì phải phụng trì giới pháp, thọ cúng Vu lan, chứ làm sao có thể phụng hành thắng pháp Vu lan, hiến cúng Tăng chúng? Như trước tôi đã trích dẫn Tạp a hàm (Chính 2/22) cho thấy Phật đã dạy, “như pháp khất thực mà hiến cúng cha mẹ thì phước rất lớn”. Ấy là Phật cho phép khất thực đúng cách để nuôi cha mẹ nếu cha mẹ nghèo khổ. Như vậy cũng có nghĩa có thể khất thực đúng cách để phụng hành thắng pháp Vu lan, hiến cúng Tăng chúng mà báo hiếu cha mẹ. Trước cũng đã nói người xuất gia không được phép cho rằng mình lo hướng dẫn cha mẹ làm lành, cho rằng mình xuất gia, thì như vậy đã là báo hiếu. Dĩ nhiên sự việc có thể là như vậy nếu cha mẹ không nghèo khổ. Nên không phải phải như vậy là hoàn toàn đúng. Vì lẽ Phật đã dạy mà tôi đã trích dẫn ở trước, rằng các thầy tỷ kheo, có 2 người mà các thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vẫn chưa trả ơn được, đó là cha và mẹ… Các thầy phải phụng dưỡng cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, đừng lỡ mất cơ hội (Chính 2/601).
Nên thảo luận cho rõ. Dẫu cha mẹ không nghèo khổ, người xuất gia lo hướng dẫn cha mẹ làm lành, lo tu cho cha mẹ nhờ, nhưng vẫn phải đem sự hiến cúng đúng cách mà mình được có để phụng hành thắng pháp Vu lan, cầu nguyện cho cha mẹ, hiện tại cũng như quá khứ, như Phật đã huấn thị. Không thể chỉ hướng dẫn cha mẹ làm lành hay lo tu rồi thôi. Trường hợp cha mẹ nghèo khổ thì người xuất gia phải hiểu rằng, “Cha và mẹ là 2 vị Phật sống trong nhà” (Vạn 35/154A), và có 2 cách xử trí. Thứ nhất, nên tu tại gia mà tâm niệm xuất gia, để lo mưu sinh phụng dưỡng cha mẹ cho đến mãn phần đã. Thứ hai, nếu xuất gia trước khi cha mẹ nghèo khổ, thì được hiến cúng đúng cách phải đem phụng dưỡng cha mẹ. Trường hợp thứ hai tôi nói vẫn có căn cứ. Trí húc đại sư dẫn Ngũ phần luật, nói cả trăm năm vai phải cõng cha vai trái cõng mẹ, cung phụng phục sức và thực phẩm quí và lạ nhất, cũng không trả được một lát công ơn cha mẹ. Từ nay về sau, ta (Phật) cho phép các vị tỷ kheo cùng tận tâm lực và cùng tận đời sống của mình mà cung phụng cha mẹ. Ai không cung phụng cha mẹ thì bị trọng tội. Đại sư lại dẫn kinh Tỳ ni mẫu nói, cha mẹ mà nghèo thì các vị tỷ kheo truyền thọ cho tam qui ngũ giới, rồi hiến cúng cung phụng (Vạn 35/153A). Xưa, ngài Đạo kỷ đi đâu thì không e thẹn gì mà gánh cái gánh, 1 đầu để kinh tượng, 1 đầu để mẹ già và cái chổi, gặp tháp Phật là quét dọn (Vạn 35/107B). Mẫu chuyện ngắn này cho thấy, miễn là có lòng từ hiếu chân thành, biết nhớ ơn cha mẹ và biết lo báo hiếu, thì lòng chân thành ấy sẽ dạy cho ta những sáng kiến thích hợp, chưa chừng còn cảm động nữa.
Nhưng trên đây là bàn quanh trường hợp cha mẹ nghèo khổ của người xuất gia. Đến như trường hợp hiến cúng Tăng chúng tự tứ trong ngày tự tứ của Tăng chúng để cầu nguyện cho cha mẹ, hiện tại cũng như quá khứ, thì hiển nhiên lời huấn thị của Phật cho thấy tại gia xuất gia đều phải tuân hành. Trong kinh kể 500 quỉ đói múa hát mà đi, 500 người tốt khóc lóc mà đi. Có người hỏi Phật, ngài dạy, con cháu những quỉ đói ấy làm phước cho họ, họ sẽ siêu thoát nên múa hát, còn con cháu của những người tốt chỉ biết sát sinh, họ sắp bị khổ lớn nên khóc lóc (Vạn 35/106B). Sự việc này không phải chỉ để cảnh giác người tại gia mà thôi. Đứng về phương diện chung của Phật giáo mà nói, cái gì phù hợp tình người, nhất là đã thành tục lệ, cái đó rất quí. Một trong những cái đó là ngày Vu lan. Phật tử phải nhất tâm phụng hành huấn thị của Phật để làm cho ngày ấy càng sâu càng rộng hơn lên.
Khi ấy tôn giả Đại mục kiền liên cùng với bốn chúng đệ tử Thế tôn, nghe lời ngài dạy ai cũng hoan hỷ và nguyện phụng hành.
Bốn chúng Phật tử là tỷ kheo, trong đó có sa di tùy thuộc; là tỷ kheo ni, trong đó có thức xoa ma na và sa di ni tùy thuộc; là ưu bà tắc tức thiện nam ; là ưu bà di tức tín nữ. Bốn chúng còn là người (4 chúng trên), trời, rồng và thần (tức 8 bộ).
Kinh này đề cao ngày tự tứ của Tăng chúng, đề cao sự hiến cúng Tăng chúng tự tứ là Tăng chúng sống đúng giới luật, lại huấn thị phải báo hiếu bằng sự hiến cúng ấy. Như vậy gián tiếp kinh này đề cao ý niệm “hiếu là giới” của Bồ tát giới. Nên, để chấm dứt sự lược giải kinh này, tôi trích lời ngài Trí húc đã dẫn kinh Mạ ý, cho thấy Phật dạy “Giữ giới chính là để hiếu thuận báo ơn cha mẹ” (Vạn 35/153B). Tôi lại dẫn thêm Bồ tát giới nói rằng, quả báo của tội phạm giới nặng nhất là “đến nỗi trong hai hay ba kiếp không còn nghe được danh từ Cha mẹ hay Phật pháp tăng” là những danh từ gợi thiện niệm nhất. Vài lời như vậy cũng đủ để suy nghĩ nhiều lắm.
8.1.2528
— o0o —
Nguồn: daophatngaynay.com
Cập nhật ngày: 01-08-2005